Dầu vậy mặc lòng, ban đầu tôi mới phụng-mạng của đảng cử đi ra
ngoài, thật tôi chưa biết có nông nổi khổ-nhục thế này đâu. Con chim bị
nhốt trong lồng lâu ngày, ngó thấy trời rộng mây xanh, thèm thuồng hết
sức. Thình-lình bây giờ có dịp thoát mình ra khỏi lồng được, thì trong óc
hớn-hở, chỉ biết cái vui được cỡi mây lướt gió, phóng-khoáng tự-do, chứ
đâu có vội nghĩ tới sau khi ra khỏi lồng rồi thì gặp phải tình-trạng ra làm
sao. Vì đó mà tôi mạnh-bạo vâng mạng của đảng ra đi.
Hạ tuần tháng chạp năm Giáp-thìn, tôi tới Kinh yết-kiến Hội-chủ,
dặn-dò công việc sau khi tôi đi rồi. Lại đi thăm viếng hết thảy những người
trọng yếu trong đảng, bàn-bạc mọi việc quan-hệ.
Sắp đặt đâu đó xong cả rồi, liền từ Quảng-nam lên đường khởi-
hành.
Cùng đi với tôi có hai người, là ông Tăng-bạt-Hổ và ông Đặng-tử-
Kính.
Tăng-quân lúc trước từng làm mặc-khách, giúp bàn việc quân cho
Lưu-vĩnh-Phúc, có dịp đi du-lịch khắp hai tỉnh Quảng và Đài-loan hơi
thông tiếng nói Quảng-đông.
Tháng 4 năm đó, Tăng-quân mới ở hải-ngoại về, nay lại cùng tôi lo-
lắng việc đảng, và đảng lựa-chọn cùng xuất-dương với tôi, thật là xứng-
đáng.
Mồng hai tháng giêng năm Ất-tị (1905) chúng tôi ra Hải-phòng để
xuất-dương.
Lúc xuống tàu, tôi khẩu-chiếm bài thơ từ-giã anh em :
生為男子要希奇
Sinh vi nam tử yếu hy kỳ
肯許乾坤自轉移