Tuy vậy, lúc đó tôi đã 40 tuổi, bị công việc của đảng ràng-buộc nơi
mình, mình phải vì đảng mà ra sức lo chạy, đến đỗi cơm không biết ngon,
chiếu không biết ấm, bây giờ dầu cho mình có muốn ôm sách đi học như
hồi thi-cử trước kia, cũng không có ngày giờ nào mà đi học được nữa. Than
ôi ! Sa-đà ngày tháng, chớp mắt ra không, mài-miệt công-danh, hối mình
đã lỡ, tôi khuyên tất cả thanh-niên nước nhà, muôn-vàn xin chớ bước lầm
vào con đường của tôi.
Thượng tuần tháng tư, tôi đáp tàu Nhật ở bến Thượng-hải, trung
tuần thì đến Hoành-tân, tôi tạm ở lại đấy hơn một tuần lễ.
Lúc đầu tôi xuất-dương không biết một tiếng Nhật nào, lại cũng
không ai giới-thiệu, thành ra lúc đi đường cần dùng chuyện chi, đều cậy
chú lính gác đường ; chú chỉ vẽ cho mình một cách rất tử-tể.
Thấy vậy lòng tôi rất cảm-phục chính-sách cảnh-sát của Nhật-bản
sắp-đặt hẳn-hoi, trọn-vẹn ; ngó lại chế-độ cảnh-sát ở xứ mình mà buồn. Lúc
đó nhà văn-học Trung-hoa là Lương-nhiệm-công Khải-Siêu đang ở Hoành-
Tân làm chủ « Tân-Dân Tùng-báo ». Nghe nói họ Lương ở Nhật lâu ngày
hơi rõ công việc nước Nhật, tôi bèn quyết-định trước hết tới ra mắt họ
Lương để cầu họ Lương giới-thiệu với người Nhật.
Tuy là tôi với Lương chưa hề gặp mặt quen nhau lần nào, nhưng tôi
nghĩ Lương là bậc người mới, chắc có con mắt tư-tưởng không như bọn
tầm-thường. Tôi liền viết một bức thư xin ra mắt. Trong thư có câu như vầy
: « Ra đời khóc một tiếng, đã là tương-tri, sách vở đọc mười năm, trở nên
thông-gia ». (Lạc địa nhất thinh khóc, tức dĩ tương-tri, đọc thơ thập niên
nhỡn, toại thành thông-gia). Tôi lấy mấy câu đó làm gốc để cầu ra mắt họ
Lương.
Tiếp được thư, Lương mời tôi vào lập-tức. Chúng tôi lấy bút mực
nói chuyện. Lương hỏi tôi qua đây có ý gì, lại hỏi tình-hình người Pháp cai-
trị nước Việt ra sao. Tôi lấy làm tiếc lúc ấy chỉ kể đại-khái, vì câu chuyện