Một viên trung sĩ và một cảnh sát mặc đồng phục nhập hội cùng Sellitto ở
lối vào. “Đã trao đổi với hàng xóm,” một người nói. Hất đầu về phía thi thể
rồi lại quay lại nhìn nó lần nữa. Cô đoán rằng anh ta chưa xem cận cảnh
cuộc tàn sát. “Nạn nhân là một người tử tế, ít nói. Ai cũng thích anh ta.
Đồng tính nhưng không có gì mờ ám. Đã không hẹn hò với ai một thời gian
rồi.”
Sachs gật đầu rồi nói vào micro, “Nạn nhân có vẻ không quen biết hung
thủ, Rhyme.”
“Chúng ta không nghĩ chuyện đó có thể, phải không?” Nhà tội phạm học
nói. “Gã phù thủy có lịch hoạt động khác – bất kể thứ quái quỷ đó có là gì đi
nữa.”
“Nạn nhân làm nghề gì?” Cô hỏi các cảnh sát.
“Nghệ sĩ trang điểm và người tư vấn trang phục cho một trong các sân
khấu ở Broadway. Chúng tôi tìm thấy vali của anh ta trong ngõ hẻm. Quý vị
biết đấy, keo xịt tóc, đồ trang điểm, cọ.”
Sachs tự hỏi liệu Calvert đã bao giờ được các nhiếp ảnh gia quảng cáo
thuê chưa và nếu có, liệu anh có từng làm việc với cô khi cô còn ở hãng
người mẫu Chantelle trên đại lộ Madison hay không. Không giống như
nhiều nhiếp ảnh gia và những người làm việc cho các hãng quảng cáo, các
nghệ sĩ trang điểm coi người mẫu là con người. Một giám đốc kinh doanh có
thể nói, “Được rồi, hãy sơn phết cho cô ta và xem cô ta trông như thế nào,”
và người nghệ sĩ trang điểm sẽ lầm bầm, “Xin lỗi, tôi không biết cô ấy là
hàng rào trước nhà anh đấy.”
Một thanh tra cảnh sát người Mỹ gốc Á ở khu Chín, vốn bao gồm phần
này của thị trấn, đi về phía lối cửa ra vào, ngắt máy điện thoại di động của
anh ta. “Cái này là sao, hả?” Anh ta hỏi một cách hào hứng.
“Là sao là thế nào,” Sellitto lầm bầm. “Không thể hiểu gã thoát đi thế
nào? Chính nạn nhân đã gọi 911. Người của anh phải tới hiện trường trong
vòng mười phút.”
“Sáu phút,” tay thanh tra nói.
Một trung sĩ nói, “Chúng tôi lặng lẽ đi xe tới và khống chế tất cả cửa sổ
và cửa ra vào. Khi chúng tôi vào bên trong, thi thể vẫn còn ấm. Ý tôi là thân