giờ chán việc viết nhạc. Anh tự hỏi người ta làm việc đó thế nào. Rhyme tin
là anh không có chút sáng tạo nào. Anh từng học đàn dương cầm năm mười
một hay mười hai tuổi gì đó, mặc dù anh đã cảm nắng cô Osborne dạy đàn
suốt một thời gian dài, những bài học tự thân nó chẳng ra gì cả. Những kỷ
niệm đẹp nhất của anh về nhạc cụ đó là việc chụp các bức ảnh phơi sáng của
những sợi dây đàn cộng hưởng cho một dự án ở hội chợ khoa học.
“Anh nghe tôi nói không, Linc?”
“Một vụ án, anh đang nói về một vụ án. Lạ lùng.”
Sellitto cung cấp thêm chi tiết, từ từ thu hút sự chú ý của Rhyme. “Phải có
cách nào đấy để thoát ra khỏi hội trường. Nhưng không ai trong trường hay
nhóm của chúng tôi tìm ra được.”
“Hiện trường giờ thế nào?”
“Vẫn còn khá nguyên vẹn. Chúng ta có thể để Amelia xem thử được
không?”
Rhyme liếc vào đồng hồ. “Cô ấy còn kẹt việc trong khoảng hai mươi phút
nữa.”
“Không vấn đề gì,” Sellitto nói, vỗ vào bụng mình như thể anh đang tìm
phần cân nặng đã mất. “Tôi sẽ nhắn tin cho cô ấy.”
“Lúc này đừng làm cô ấy phân tâm.”
“Tại sao, cô ấy đang làm gì?”
“À, chuyện có hơi nguy hiểm,” Rhyme nói, tập trung trở lại vào thứ âm
thanh óng như tơ từ kèn trumpet. “Còn gì nữa không?”
* * *
Cô ngửi thấy mùi gạch ẩm ướt của bức tường nhà chung cư trước mặt.
Lòng bàn tay cô đổ mồ hôi và phía dưới mái tóc đỏ như lửa nhét trong
chiếc mũ bám bụi, da đầu cô ngứa kinh khủng. Dẫu vậy, cô hoàn toàn bất
động khi một cảnh sát mặc đồng phục tiến lại gần và cũng áp mặt anh ta vào
bức tường gạch.
“Được rồi, tình hình là thế,” người đàn ông nói, hất hàm về phía bên phải
họ. Anh ta giải thích rằng ngay chỗ góc quanh của khu nhà chung cư là một
bãi đất trống, ở giữa bãi đất đó là chiếc xe dùng để tẩu thoát vừa gặp nạn vài
phút trước, sau cuộc rượt đuổi tốc độ cao.