ngay lập tức để ý rằng đây không phải là vật liệu sợi nhân tạo hay polymer,
do đó nó phải có nguồn gốc tự nhiên.
“Nhưng cụ thể là gì mới được?” Mel Cooper hỏi thành tiếng.
“Hãy nhìn vào cấu trúc tế bào xem. Tôi cá nó là chất thải.”
“Cái gì cơ?” Sellitto hỏi. “Chất thải hả? Như là phân ấy hả?”
“Phân, như tơ. Nó được thải ra từ hệ tiêu hóa của con tằm. Nhuộm màu
xám. Được gia công thành màu xỉn. Bên kia có gì, Mel?”
Anh chĩa kính hiển vi sang đó và thấy chúng là những sợi giống nhau.
“Hung thủ có mặc đồ màu xám không?”
“Không,” Sellitto thông báo.
“Nạn nhân cũng không,” Sachs nói.
Lại thêm những bí ẩn nữa.
“A,” Cooper nói, nhìn vào thị kính, “có thể có tóc ở đây.”
Trên màn hình hiện ra một sợi tóc dài màu nâu.
“Tóc người,” Rhyme nói, lưu ý thấy hàng trăm vảy tóc. Lông động vật chỉ
có tối đa vài chục vảy. “Nhưng là tóc giả.”
“Giả sao?” Sellitto hỏi.
“À,” anh nói một cách sốt ruột, “nó là tóc thật nhưng từ một bộ tóc giả.
Rõ ràng là thế. Nhìn đi, ở phía cuối đấy. Đó không phải là nang tóc. Là keo
dán. Tất nhiên, có thể không phải là tóc giả của gã, nhưng vẫn đáng để đưa
vào sơ đồ đấy.”
“Như thế tóc gã không phải là màu nâu?” Thom hỏi.
“Dữ kiện,” Rhyme nói cộc lốc, “là tất cả những gì chúng ta quan tâm. Hãy
ghi rằng đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.”
“Rõ, thưa sếp.”
Cooper tiếp tục kiểm tra và thấy rằng trên hai mảnh băng keo có một chút
bụi nhỏ xíu và một thứ gì đó từ thực vật.
“Xem mẩu thực vật trước, Mel.”
Khi phân tích những hiện trường tội ác ở New York, Lincoln Rhyme luôn
nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ sinh thái, bằng chứng thực vật và động
vật; vì thực ra chỉ một phần tám thành phố là nằm trên lục địa Bắc Mỹ, phần
còn lại là các hòn đảo. Điều đó có nghĩa là khoáng chất, hệ thực vật và động