lạc ấy, dù tôi là tay súng số một trên miền đất thuộc địa. Quanh ta đầy rẫy
lũ người Iroquois, và tên Mohawk lai tạp của ông lại biết quá rõ chỗ chúng
ở, cho nên hắn không thể là bạn đồng hành của tôi được.”
“Ông nghĩ vậy ư?” Heyward ngả người về phía trước, hạ thấp giọng gần
như thì thầm, “Thú thật, không phải tôi không nghi hắn, tuy vậy tôi đã cố
không để lộ mà còn làm như vẫn tin tưởng vào hắn để cho hai cô bạn đồng
hành của tôi yên tâm. Chính vì nghi ngờ nên tôi đã không theo hắn nữa mà
bắt hắn đi theo tôi như ông đã thấy.”
“Thoạt nhìn tôi đã biết ngay là một kẻ tráo trở.” Người trinh sát vừa đáp
vừa để ngón tay lên mũi ra hiệu phải đề phòng, “Tên kẻ cắp đó tựa lưng
vào một cây con mà ông có thể nhìn thấy ở trên đám bụi rậm kia; chân phải
của nó song song với thân cây,” và tay người trinh sát vỗ vào khẩu súng,
“từ chỗ tôi đứng đây, tôi có thể chỉ một phát bắn trúng giữa mắt cá chân và
đầu gối của nó khiến nó không còn nhảy nhót trong rừng được, ít nhất trong
một tháng. Nếu tôi quay trở lại chỗ nó, loài sâu bọ quỷ quyệt này đâm nghi
và sẽ lao vào trong rừng như một con hươu hoảng hốt.”
“Chớ làm thế! Cũng có thể hắn vô tội, và tôi không tán thành cách làm
đó. Tuy nhiên, nếu tôi chắc chắn là hắn phản bội thì…”
“Tính lừa đảo của một tên Iroquois là điều chắc chắn rồi,” người trinh sát
vừa nói vừa đưa khẩu súng về phía trước bằng một động tác làm theo bản
năng.
“Dừng lại!” Heyward ngăn, “Chớ làm như vậy. Chúng ta phải nghĩ cách
nào khác mặc dù tôi có nhiều lý do để tin rằng tên vô lại này đã lừa mình.”
Người đi săn cũng đã từ bỏ ý định bắn què tên liên lạc và đứng suy nghĩ.
Lát sau, bác làm hiệu và lập tức hai người bạn da đỏ tiến lại gần. Họ thì
thầm bàn bạc sôi nổi bằng tiếng Delaware. Cứ nhìn người da trắng vừa nói
vừa luôn tay chỉ trỏ về phía ngọn cây con cũng rõ ràng bác đang nói về vị
trí khuất kín của kẻ địch. Nắm ngay được ý đồ của Mắt Chim Ưng, hai
người da đỏ bỏ súng lại, mỗi người từ một phía con đường mòn luồn vào
trong bụi, nhẹ nhàng không nghe thấy tiếng bước chân.