đi săn, người đang nói chuyện với thầy quản hát kia kìa. Ông ta thông thuộc
đường ngang lối tắt trong rừng và hứa đưa chúng ta đến nghỉ ở một nơi an
toàn cho tới sáng mai.”
Người Anh điêng dán đôi mắt sáng quắc vào Heyward và hỏi bằng thứ
tiếng Anh sai lỗi:
“Nó đi một mình à?”
“Một mình!” Heyward ngập ngừng đáp, không khỏi lúng túng vì xưa nay
không quen dối trá, “Ồ, không phải một mình, tất nhiên rồi, Magua ạ, vì
còn có chúng ta nữa kia mà.”
“Nếu vậy Cáo Tinh Khôn
sẽ đi,” người liên lạc lạnh lùng xách chiếc túi
nhỏ ở dưới chân, “và những người mặt tái sẽ không gặp ai khác ngoài
những người cùng màu da với họ.”
“Đi ư! Anh gọi ai là Cáo Tinh Khôn?”
“Đó là tên do các cha Canada đặt cho Magua.” Người liên lạc đáp với
một vẻ tự hào về biệt danh đó, “Một khi Munro đang chờ thì đêm hay ngày
đối với Cáo Tinh Khôn cũng vậy thôi.”
“Thế Cáo Tinh Khôn sẽ ăn nói ra sao với viên chỉ huy pháo đài William
Henry về hai cô con gái của ông ta? Liệu có dám nói với ông già nóng tính
xứ Scotland rằng hai con ông đã bị bỏ rơi, không người hướng dẫn, tuy
Magua đã hứa đưa họ đi không?”
“Mặc dù ông già Đầu Bạc có tiếng nói to và cánh tay dài, một khi ở
trong rừng thì Cáo Tinh Khôn cũng chẳng nghe và cũng chẳng thấy gì.”
“Nhưng còn những người Mohawk sẽ nói gì? Họ sẽ may váy cho Cáo
Tinh Khôn và bắt phải ở trong lều cùng với đám đàn bà vì không thể giao
những công việc của đàn ông cho Cáo Tinh Khôn được nữa.”
“Cáo Tinh Khôn biết đường đi tới những hồ lớn và tìm được xương cốt
của ông cha mình,” người liên lạc đáp, không hề lay chuyển.
“Thôi đi, Magua,” Heyward bảo, “chúng ta không phải là bạn ư? Cớ sao
nói với nhau những lời chua chát thế? Đại tá Munro hứa sẽ thưởng sau khi