“Tôi sẽ hỏi người khác,” cô nói, đầy khó khăn… “không cần phải hỏi
anh ấy.”
Loerke nhìn cô thân mật.
“Tốt.” Ông nói. “Hãy hỏi người khác. Chỉ có điều đừng quay về với
nước Anh kia nữa, với trường học. Không, như thế thật ngốc nghếch.”
Im lặng. Ông sợ sẽ thốt lên lời đề nghị công khai, rằng cô hãy đi cùng
mình, thậm chí ông còn không chắc chắn mình có thực sự muốn cô hay
không; cả cô nữa, cô cũng đang sợ nếu được hỏi điều đấy. Ông chợt thèm
khát cảm giác cô đơn, ông đã rất dè dặt khi chia sẻ cuộc đời mình, ngay cả
những lúc như thế này.
“Thành phố duy nhất tôi biết là Paris,” cô nói, “và tôi không thể chịu
được điều đấy.”
Cô ngước đôi mắt tròn xoe của mình nhìn Loerke chằm chằm. Ông khẽ
cúi đầu, quay mặt sang hướng khác.
“Paris, không!” Ông thốt lên. “Giữa tôn giáo của tình yêu và chủ nghĩa
cuối cùng, cộng với bước ngoặt mới đến với Jesus, tốt hơn hết cô hãy cưỡi
lên vòng quay ngựa gỗ suốt cả ngày. Nhưng hãy đến với Dresden. Ở đấy tôi
có một xưởng điêu khắc. Tôi có thể mang đến cho cô công việc sáng tạo…
ôi, như thế sẽ rất dễ dàng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất kỳ tác phẩm của
cô, nhưng tôi tin tưởng cô. Hãy đến Dresden, đấy là một thành phố xinh
xắn, rất đáng để sống, hội tụ tất cả những điều mà cô mong đợi ở một thành
phố. Ở đấy cô sẽ có tất cả, không hề tồn tại những thứ ngớ ngẩn như ở Paris
hay những trò bia bọt giống như ở Munich.”
Ông ngồi yên trên ghế, lạnh lùng nhìn cô. Điều cô thích ở ông chính là
ông luôn nói với cô bằng giọng điệu đơn giản và thái độ thẳng thắn, cũng
giống như chính con người ông. Loerke là một gã khéo léo, trước hết là
một người bạn dành riêng cho cô.
“Không… Paris,” ông tiếp tục, “nó khiến tôi phát ốm. Hừ… Tình yêu.
Tôi ghét cay ghét đắng nó. L’amour, l’amour, die Liebe … Tôi phát tởm
với nó dẫu bằng bất cứ ngôn ngữ nào. Đàn bà và tình yêu, không có gì nhạt
nhẽo hơn thế.” Ông cao giọng.