Viên cảnh sát không thống nhất ý kiến với hắn. “Không, nó không có
trên giá treo cà-vạt đâu. Thế nên tôi mới hỏi ông như vậy. Ông vẫn nhớ
mấy cái ngạnh nho nhỏ trên giá cà-vạt đó chứ, trông như xương cá ấy nhỉ?
Chúng tôi tìm thấy chỗ của cái cà-vạt đó, nơi ông thường treo nó ấy, vì đó
là chỗ trống duy nhất ở giữa cả mấy cái cà-vạt. Nó lại ở vị trí dưới cùng
nữa. Nói cách khác là bình thường thì nó sẽ bị tất cả những cái cà-vạt khác
treo trên đó đè lên. Thế mà, ông thấy đấy, nó lại đã được gỡ xuống khỏi giá
chứ không phải những cái kia. Có nghĩa là ông đã phải chủ động tìm đến
nó, chủ động lựa chọn nó, chứ không chỉ là ngẫu nhiên lấy ngay cái cà-vạt
ở trên cùng. Điều khiến tôi phân vân là sau khi mà ông đã mất công nâng
cả mớ cà-vạt lên để lấy cái bên dưới, gỡ khỏi giá thì điều gì đã khiến ông
đổi ý, chuyển sang cái ông đeo trên người cho cả buổi tối – mà thậm chí nó
lại chẳng hợp gì với trang phục của ông cả.”
Henderson giận giữ dùng cườm tay đập vào trán mình. Hắn đứng bật
dậy. “Tôi không thể chịu đựng thế này nữa,” hắn rên rỉ. “Tôi không chịu
đựng thêm được nữa. Ông muốn nói gì thì nói toạc ra đi, đừng úp mở,
không thì thôi. Nếu nó không ở trên giá thì ông nói xem nó ở đâu? Tôi
không đeo trên người rồi. Nó ở đâu? Ông biết thì ông nói xem nào. Mà có
khác gì đâu chứ?”
“Khác nhiều lắm đấy, ông Henderson.”
Sau đó là một khoảng lặng khá dài, dài đến nỗi hắn bắt đầu tái đi, trước
khi cuộc thẩm vấn kết thúc.
“Chiếc cà-vạt đó thít chặt vào cổ của vợ ông. Chặt đến nỗi làm vợ ông
chết. Chặt đến nỗi phải dùng đến dao cắt mới gỡ nó ra được.”