“Đúng rồi. Đó là phận sự của tôi. Bàn nào tôi chẳng phải làm thế, ít nhất
một lần. Tôi cũng nhớ mang máng là có chỗ bàn của ông, bởi vì mặt ông
lúc đó – nói thế nào nhỉ – trông cứ càu quạu ấy. Tôi còn nhớ hình như còn
có hai ghế trống ở bên ghế ông ngồi. Tôi còn chỉnh lại một chiếc cho ngay
ngắn mà.
“Ông cũng vừa nói là tôi nói ‘Thưa ông’, đúng là tôi nói thế. Và như thế
thì nghĩa rằng chắc chắn không ai đi cùng ông cả. Nếu có phụ nữ đi cùng
với nam giới thì câu đó sẽ phải là ‘ông bà’. Không được phép thay đổi.”
Phần màu đen ở giữa mắt anh ta ổn định như được dán hay bắt chặt vào
khuôn mặt, không hề lay động. Anh ta quay sang phía Burgess. “Nếu còn
có gì nghi ngờ thì để tôi lấy danh sách đặt bàn tối qua ra, các ông có thể tự
kiểm tra.”
Burgess nói với vẻ hào hứng, rõ ràng là ông ta rất thích ý tưởng đó. “Tôi
nghĩ rằng như thế cũng chẳng gây thiệt hại gì cả.”
Tay bồi trưởng đi sang đầu kia phòng ăn, mở một ngăn kéo, lấy ra một
cuốn sổ. Gã không ra khỏi phòng, cũng không ra khỏi tầm mắt của mọi
người. Cuốn sổ được giao mà chưa hề mở ra, vẫn y nguyên như khi được
lấy ra từ ngăn kéo, như thể để cảnh sát tự mở ra thì hơn. Gã chỉ nói, “Các
ông nên so ngày tháng ở trên đầu trang.”
Ngoài gã ra thì mọi người đều chụm đầu vào xem cuốn sổ. Gã đứng
ngoài. Chữ viết trong sổ là bằng bút chì, nhưng vẫn đủ để đạt được mục
đích. Trang đó ghi trên cùng là ‘20-5, T.Ba’. Rồi có một chữ X vẽ bằng hai
đường kẻ chéo từ bốn góc, cho thấy rằng trang này đã được giải quyết xong
xuôi. Nét xổ chữ X không cản trở việc đọc nội dung còn lại.
Trên đó có một danh sách khoảng chín, mười cái tên được viết theo cột
dọc như sau:
Bàn 18 – Roger Ashely, bốn khách. (đã gạch)
Bàn 5 – Bà Rayburn, sáu khách. (đã gạch)
Bàn 24 – Scott Henderson, hai khách. (chưa gạch)
Cạnh cái tên thứ ba còn có một dấu hiệu trong ngoặc: (/)