giờ hắn không để ý. “Ông đang tính chuyện gì?” hắn hỏi. “Mà chuyện gì
khiến ông tới chỗ này? Nhiều tháng đã qua rồi.”
Burgess lấy tay xoa gáy. “Tôi cũng không biết nói thế nào nữa. Tôi thấy
thế này cũng thực là lạ,” ông ta thú nhận. “Tôi biết là việc của tôi với ông
đã chấm dứt khi Đại Bồi Thẩm Đoàn quyết định đưa ông ra tòa xét xử…
Chuyện này thật khó nói,” ông ta buồn rầu nói.
“Có gì mà khó nói chứ nhỉ? Tôi là tử tội đang bị nhốt rồi còn gì.”
“Lý do chính là chuyện đó. Tôi đến đây… tôi muốn nói là…” Ông ta
ngừng lời một lúc, rồi sau đó nói, “Tôi tin là ông vô tội. Đấy, nếu điều đó
có ý nghĩa gì, dù một chút ý nghĩa gì… với ông hoặc với tôi. Henderson,
tôi không nghĩ ông là thủ phạm.”
Một khoảng thời gian chờ đợi kéo dài.
“Ông nói gì đi. Đừng ngồi đấy nhìn tôi như thế.”
“Tôi biết nói gì đây khi ông đến đào xác chết mà ông giúp chôn xuống
mà nói, ‘Xin lỗi ông bạn, tôi nghĩ là tôi nhầm rồi.’ Ông dạy tôi nên nói thế
nào mới phải.”
“Có lẽ ông nói đúng. Có lẽ chẳng có gì nói cả. Nhưng tôi vẫn cho rằng
tôi đã làm đúng phận sự, dựa trên những bằng chứng có được. Nhưng tôi sẽ
làm tốt hơn thế. Tôi sẽ rà lại toàn bộ từ ngày mai, nếu thấy cần phải rà lại.
Cảm giác cá nhân của tôi không được tính vào đó. Tôi có phận sự phải dựa
vào những chứng cứ cụ thể.”
“Thế điều gì khiến ông thay đổi chóng mặt về quan điểm luận tội thế?”
Henderson không che đậy sự mỉa mai buồn rầu.
“Nói cho rõ ra thì cũng không dễ đâu. Cũng không nhanh đâu, phải đến
vài tuần, cả tháng thì mọi thứ mới ngấm dần vào tôi. Như nước phải thấm
dần qua một đống bùi nhùi chặn dòng chảy. Bắt đầu từ hôm xét xử, tôi nghĩ
vậy. Tôi thấy có điều gì đó ngược đời. Tất cả những chứng cứ người ta
choàng lên cổ ông đều rất nặng ký, nhưng về sau tôi lại thấy những chứng
cứ đó chỉ sang một hướng khác khi tôi tự suy xét lại.