phút sau, anh hỏi được hiệu may duy nhất trong vùng, và sau khi tìm thấy
nó, anh lúng túng bước vào trong để hỏi xem liệu người ta có là quần áo
không, và mất bao lâu để làm chuyện đó. “Mười phút thôi, không hơn,”
người ta nói với anh như vậy.
— Vậy thì tôi sẽ quay lại lúc bốn giờ chiều. - Ove đáp và bước ra ngoài.
Anh lững thững quay lại ga xe lửa, nằm xuống một băng ghế trong sảnh
đợi. Lúc ba giờ mười lăm phút, anh lên đường quay trở lại hiệu may, nhờ họ
là giúp áo sơ mi và quần dài trong khi mình ngồi đợi trong buồng vệ sinh
của nhân viên. Sau đó, anh đi bộ trở về nhà ga và cùng Sonja bắt chuyến tàu
quay về ga xuất phát của cô. Từ chỗ đó, anh lại đi thêm nửa tiếng nữa để về
đến ga của mình. Ove lặp lại toàn bộ quy trình vào ngày hôm sau và ngày
hôm sau nữa. Đến ngày tiếp theo thì nhân viên quầy vé ở nhà ga đến nói với
Ove là anh không thể ngủ vạ vật ở đó như một kẻ lang thang được. Ove hiểu
điều đó nhưng anh phân trần rằng mình phải đợi một cô gái. Nghe đến đó,
người nhân viên gật đầu thông cảm và thu xếp cho anh ngủ trong phòng để
hành lý thất lạc. Ngay cả những người bán vé ở nhà ga cũng hiểu thế nào là
tình yêu.
Ove làm như thường ngày trong ba tháng liền. Cuối cùng Sonja tỏ ra sốt
ruột vì chưa bao giờ được mời đi ăn tối và cô ngỏ lời luôn:
— Ngày mai em sẽ đợi ở đây lúc tám giờ tối. Em muốn anh mặc com-lê
và đưa em đi ăn tối. - Cô nói một cách dứt khoát lúc bước xuống tàu vào
một tối thứ Sáu.
Và Ove tuân lệnh.
Người ta chưa bao giờ hỏi ông sống như thế nào trước khi gặp bà. Nhưng
nếu ai đó hỏi, Ove sẽ đáp rằng mình chưa từng sống.
Vào tối thứ Bảy, Ove khoác lên người bộ com-lê cũ màu nâu của bố. Nó
hơi chật ở vai. Rồi anh nấu hai chiếc xúc xích và bảy củ khoai tây tại góc
bếp nhỏ trong phòng mình, trước khi đi một vòng quanh nhà để siết vài con
ốc theo yêu cầu của bà chủ.
— Cậu sắp đi gặp ai đó à? - Bà hỏi với giọng hài lòng khi thấy Ove bước
xuống cầu thang. Bà chưa bao giờ thấy anh mặc com-lê.