tiếp hình ảnh giám sát trên Internet. Với sự giúp sức của một chiếc camera
như vậy, người ta có thể giám sát không chỉ khu vực thu gom rác, mà cả bãi
đỗ xe, nhờ đó sẽ ngăn ngừa các vụ phá hoại và đột nhập. Hay hơn nữa, các
đoạn phim sẽ tự động bị xóa sau hai mươi bốn giờ, qua đó tránh mọi sự
“xâm phạm quyền riêng tư của các cư dân”. Để có thể lắp đặt hệ thống
camera này, cần phải có một sự đồng thuận tuyệt đối của mọi người trong
khu phố. Nhưng đã có một phiếu chống.
Bởi vì ông Ove không tin vào mạng Internet. Ông cứ thích phát âm nó
thành Anh-ẹc-nét, mặc dù vợ ông khăng khăng cho rằng ông phải phát âm là
In-tơ-nét mới đúng. Ban điều hành nhanh chóng nhận ra rằng thà ông chết đi
còn hơn để cho Internet phơi bày cảnh ông đi đổ rác. Thế là rốt cuộc chẳng
có chiếc camera giám sát nào được lắp đặt. Tốt thôi, ông nghĩ bụng. Dù sao
thì việc tuần tra hằng ngày cũng hiệu quả hơn nhiều. Ta biết ai làm chuyện
gì và ai đang giữ mọi việc trong tầm kiểm soát. Bất cứ người nào có não
cũng hiểu được điều đó.
Khi đã kiểm tra xong khu vực gom rác, ông khóa cửa như mọi lần, rồi lay
mạnh cánh cửa ba cái để đảm bảo nó đã đóng chặt. Sau đó, ông quay người
và nhìn thấy một chiếc xe đạp dựng vào vách tường phía ngoài nhà cất xe
đạp. Bất chấp một biển báo to tướng cảnh báo người dân không được để xe
đạp bừa bãi. Ngay bên cạnh chiếc xe đạp, một người nào đó đã dán một mẩu
giấy viết tay đầy phẫn nộ: “Đây không phải là chỗ để xe đạp! Học cách đọc
biển báo đi!” Ông Ove lầm bầm chửi, rồi mở cửa nhà cất xe đạp, cắp cái xe
lên, đặt nó ngay ngắn bên trong, trước khi khóa cửa lại và vặn thử nắm cửa
ba lần.
Ông giật tờ giấy viết tay trên tường xuống. Chắc ông phải đề nghị ban
điều hành cho dán một biển báo “cấm dán giấy lung tung” trên bức tường
này. Ngày nay người ta cứ nghĩ là mình có thể tùy tiện dán thông điệp bất
bình của mình mọi nơi mọi chỗ. Đây là bức tường, chứ có phải bảng thông
báo đâu?
Ove đi dọc theo con đường nằm giữa hai dãy nhà. Ông dừng lại ở phía
ngoài ngôi nhà của mình, khom người trên những viên đá lát đường, và hít