Ông mở hộp lấy mũi khoan ra. Chúng là thứ quan trọng nhất khi khoan
tường. Không phải máy khoan, mà là mũi khoan. Cũng giống như bạn phải
có bộ lốp thích hợp cho ô tô thay vì băn khoăn về má phanh và những thứ
vớ vẩn tương tự. Bất cứ ai có hiểu biết đều nói như vậy. Ove đứng ở giữa
phòng để ước lượng khoảng cách, rồi tựa như một bác sĩ phẫu thuật xem xét
chỗ dụng cụ của mình, ông quan sát các mũi khoan. Ông chọn một mũi, gắn
nó vào máy khoan, rồi bấm nút khởi động vài lần để tiếng máy vang lên.
Ông lắc đầu, cho rằng nó chưa chuẩn, và thay mũi khoan. Lặp lại thao tác
bốn lần, cuối cùng ông cũng hài lòng và vừa bước đi vừa vung vẩy cái máy
khoan như một khẩu súng lớn.
Ove đứng giữa phòng khách, mắt ngước lên nhìn trần nhà. Ông phải đo
trước khi bắt đầu. Để cho cái lỗ khoan thật sự nằm chính giữa. Không còn gì
tệ hơn việc khoan bừa trên trần nhà.
Ông đi lấy một chiếc thước dây rồi tiến hành đo từ bốn góc - mỗi góc hai
lần cho chắc ăn - trước khi đánh dấu điểm trung tâm của trần nhà bằng một
chữ thập.
Bước xuống ghế, ông đi một vòng để xem tấm lót bằng nhựa có nằm đúng
vị trí hay chưa. Ông mở khóa cửa chính để cho người ta không phải phá
chúng khi vào nhà đưa ông xuống. Đó là một cánh cửa bền chắc, còn tồn tại
được nhiều năm nữa.
Ông mặc áo vest vào, kiểm tra cái phong bì ở túi trong. Cuối cùng, ông
quay tấm ảnh vợ đặt ở cửa sổ sao cho bà nhìn ra ngoài, về phía cái lán. Ông
không muốn bà thấy việc ông sắp làm, nhưng không dám đặt sấp tấm ảnh
xuống. Vợ của ông luôn cằn nhằn khi họ đến nơi nào đó không có tầm nhìn.
Bà cần “thứ gì đó sống động để nhìn”, như lời bà nói. Thế nên ông quay mặt
bà ra phía cái lán, tự nhủ rằng con mèo phiền toái đó sẽ quay lại. Vợ ông
thích con mèo phiền toái.
Cầm lấy máy khoan cùng với cái móc, ông đứng thẳng người trên ghế
đẩu, và bắt đầu khoan. Khi tiếng chuông cửa vang lên lần đầu tiên, ông nghĩ
rằng mình nghe nhầm và phớt lờ nó. Ở lần thứ hai, ông nhận ra có người
đang bấm chuông thực sự, và cũng phớt lờ nó.