cuốn, vào núi rừng không sợ rắn rít.
Dù còn lại một mình, có nghĩa không còn có ngựa để làm bạn đường, ta
vẫn không từ bỏ quyết định đi vào vùng núi non ấy.
Vào một ngày có lũ chim rừng chuyện trò gần nơi ta nằm đói lã, ta đã nhận
ra sự vĩ đại của mình. Ta đói lã vì suốt mấy hôm liền không gặp được nơi
có người ở. Đi tìm một vị tổ phụ sống gần hai thế kỷ trước đã là vĩ đại. Nên
chi có chết trong cuộc tìm kiếm này là nhân đôi sự vĩ đại của mình. Trong
cơn đói lã, ta nghe tiếng trò chuyện của lũ chim rừng giống rặt tiếng người.
Dường như lũ chim đã sú nước cho ta. Không phải là mơ, ta biết, vì cơn
khát ở trong ta đã thật sự chấm dứt. Sau đó thì ta nghe như có những hạt
cơm ở nơi miệng mình. Và ta ngấu nghiến nhai.
-Nó còn sống.
Ta nghe lũ chim rố lên thế.
Và chính ý tưởng về sự vĩ đại có thêm cơm với nước vào đã khiến ta mở
được mắt nhìn. Thì ra trong cơn lói lã ta đã nằm xuống ở một khu mộ táng
của người miền núi. Và không phải là chim, mà là một lũ người miền núi
đang vây quanh ta.
Khi ta đã đứng lên được, nhìn thấy một huyệt mộ mới đào, cạnh đấy là
đoạn gỗ rừng to bằng hai người ôm có dây buộc quanh, và lỉnh khỉnh các
thứ chiêng, ché, chén bát, cơm nước, ta liền hiểu điều gì đã xảy ra, ta nói :
-Nhờ đi chôn người chết, những người anh em đây đã trông thấy cứu sống
ta. Ơn này lớn lắm. Coi như ta đã nợ anh em món nợ lớn.
Một người trong bọn họ chỉ cái quan tài bằng cây gỗ rừng :
-Nợ con ma rừng đấy, chứ không phải nợ bọn ta đâu. Lúc chưa chết, nó
cũng là đứa tốt trong làng
Phải. Ta vừa ăn bớt phần cơm nước của người chết. Tức lấy bớt phần của
cải người làng đã chia cho người chết mang theo.
Ta nói :
-Nợ người chết thì khó trả lắm. Song, sau khi tìm được tổ phụ của mình, ta
sẽ tìm cách để trả thôi.
Bọn họ hỏi ta đi tìm tổ phụ của ta ở đâu. Ta nói đi tìm ở các nước Hoa Anh,
Nam Bàn, và Bô Tri Tri. Bọn họ hỏi các nước ấy ở đâu. Ta nói là mình