loé của mình, nhưng anh vội dừng lại. Hãy để cho nàng bất ngờ. Pôn muốn
như vậy.
Hai ngày sau, khách sạn Hà Thành đón một người khách mới. Đó là Pôn
Vericơn.
- Tôi đã đăng ký trước với bà Hoàng Dạ Nguyệt, - Pôn nói với Thuý,
người phụ trách lễ tân, và đưa cho cô tấm danh thiếp kèm theo một bó hoa
cúc vàng thắm. - Xin phiền cô chuyển giúp tới bà Hoàng Dạ Nguyệt.
Nguyệt bất ngờ và có phần hốt hoảng vì sự xuất hiện của người khách
quen này. Toà đại sứ Seăngđi đã sửa xong lâu rồi, sao ông ta lại thuê một
phòng ở đây? Khó có thể từ chối, nhưng tiếp nhận tức là sẽ chuốc lấy bao
sự phiền toái… Bằng kinh nghiệm và linh cảm của một người quen tiếp
khách nước ngoài, Nguyệt đã mường tượng ra mọi điều.
- Em báo cáo với bác Phạm Lẫm và xếp cho ông ta một buồng ở tầng
hai. - Nguyệt nói với Thuý. - Nhờ em chuyển lời cảm ơn của chị tới ông ta.
Nói rằng chị đang bận việc, chưa thể tiếp ông ta được.
Vậy là Pôn có một căn phòng ở khách sạn Hà Thành. Anh thuê dài hạn,
và tỏ ra một người khách hết sức hào phóng, có ý định tổ chức một chỗ ở
lâu dài.
Người quan tâm đến sự có mặt của Pôn ở khách sạn Hà thành đầu tiên là
bà Bích San, bí thư chi bộ. Trong tủ tài liệu ở phòng làm việc của bà ở
khách sạn có thêm một cuốn sổ mới, bia đỏ.
Trang đầu tiên:
“Hết sức nưu ý - người khách ở phòng số 23- Pônvericơn. Đã có phòng ở
trong toà đại sứ nước Cộng hoà Scăngđan, tại phố X. Tại sao anh ta nại đến
đây? Vụ đại sứ Scăngđan bị chậm giờ, chính anh ta đã báo cáo với Vụ lễ
tân Bộ ngoại giao về việc mất nước khi đại sứ đang tắm ở khách sạn Hà
Thành. Với mục đích gì? Phải chăng muốn bêu xấu ngành du lịch?
“Ba năm trước Pôn vericơn đã từng là thành viên UNESCO ở Việt Nam.
Anh ta hay tới các di tích nịch sử, các đền chùa cổ, thích sưu tập các đồ cổ.
Với dụng ý gì? Phe đồ cổ hay tìm những tài niệu do Pháp để lại?