vui. Bởi vì theo ông, các thứ trên vách tuy là của hiếm, nhưng kiếm không
khó; còn kiếm cho được một con chó như con Sói Lửa thì lại là chuyện khó
khăn. Bà vợ ông khuyên giải mãi mà ông cũng không khuây.
Con chó Khoang đã cho ra đời hai con chó con, một con giống con Sói
Lửa, con thứ hai giống con Báo Vàng. Có lẽ hai con chó con này đã làm
ông Giáp vơi đi phần nào nỗi tiếc thương con Sói Lửa. Hai con chó được
chăm bẵm, càng lớn càng xinh. Con Báo Vàng ra chiều âu yếm cả hai con
chó nhỏ. Phần thì đã hết mùa săn, phần vì con chó Khoang đang nuôi con.
Ông Giáp thôi không đi săn nữa. Nhưng việc tìm kiếm con Sói Lửa ông vẫn
không quên, ông gặp gỡ gần như khắp lượt các bạn săn, bạn vòng bẫy
quanh vùng, nói với họ rằng nếu con Sói Lửa tình cờ lạc vào đàn họ hoặc
sa vào vòng vào bẫy họ, thì xin đừng giết nó, cố tìm hết mọi cách bắt sống,
nếu họ cần đổi gì hoặc đòi chuộc bao nhiêu ông cũng sẵn sàng.
Mỗi lần có ai đi rừng hoặc đi săn, đi bẫy về ghé vào nhà ông Giáp, ông
hồi hộp lắm, ngỡ là người ta đem đến tin tức con Sói Lửa. Nhưng chẳng có
tin tức gì tốt lành về nó cả. Không một ai gặp, không một ai nghe tiếng nó
sủa hoặc lốt chân nó trong vùng rừng làng này và các làng lân cận, nhưng
có một lần...
Vùng này vào dịp hè, người ta thường vào rừng gần làng chặt củi tươi
vác và nhà dựng quanh những cây mít, cây bưởi cho khô để đến mùa thu và
mùa rét sẽ đun. Mỗi vụ thu, đông thường đun hết từng đống củi to như cái
chuồng lợn, phải một hai người chặt và vác suốt mùa hè mới đủ. Hôm ấy
ông Giáp mượn được một chiếc thuyền. Hai bố con ông ăn cơm từ sớm,
xách mác tay và gọi theo ba con chó: con Báo Vàng, con Mực và con Đốm
xuống thuyền, chèo chếch sang phía Rẫy Bạn chặt củi. Cặp thuyền vào bờ
hai bố con leo lên vùng đất có rất nhiều cây xiêm dâu và cây dền. Hai loại
gỗ này chặt làm củi thì tuyệt. Cây nào cây nấy thẳng tắp, vừa đủ một nhát
rựa, chặt rất mát tay. Họ đang chặt củi thì nghe tiếng chạy sàn sạt, lúc sau