Ông mím chặt môi, thốt ra tiếng “hừm!” và rồi lại biến mất; nhưng lần
này, ông không vắng mặt lâu, và lúc ông quay vào thì cũng lại để nói:
- Các vị được phụ nữ đứng về phe các vị, dứt khoát, thưa các vị; bà
Mitsơlê thông cảm với điều băn khoăn của các vị và tán thành. Ta hãy gạch
câu đó đi.
Cuối cùng, khi mọi việc đã xong xuôi, ông lại hỏi ý kiến nàng Êgiêri
của ông một lần nữa, chúng tôi thấy thế mỉm cười, nhưng với một giọt
nước mắt xúc động trên mắt.
Ông đã hỏi trái tim của người vừa là bạn đời của ông, vừa là đồng chí
của ông. Trái tim đó cũng như trái tim chúng tôi đã nói vì tính mạng và vì
danh dự của các bạn chúng tôi.
Mitsơlê đi đi lại lại.
- Chúng sẽ không dám giết họ đâu, tôi không tin, trời đẹp thế!… Dưới
ánh mặt trời này, máu sẽ vấy lên cỏ xanh một vệt xấu quá… gã tư sản
không ngồi ăn trên cỏ ở nơi nào có mùi xác chết. Chúng sẽ đồng ý với
chúng ta, rồi các vị xem. Dù sao tôi cũng thách chúng bắn người vào một
ngày chủ nhật.
Thư kêu gọi kết thúc bằng những lời này, hoặc những lời khác đồng
nghĩa:
Chúa đoái nhìn các dân tộc.
Chúa! Cái này không hợp với bọn vô thần chúng tôi: bĩu môi và im
lặng.
Mitsơlê nhìn mặt mọi người rồi nhún vai nói:
- Cố nhiên!… Nhưng điều này có lợi.
Bọn tôi đem lá thư tới các báo, thế mà cũng tranh nhau cái vinh dự ấy!
Ái chà: Thánh thật! Thế ra không không đứng vào một đảng phái nào,
một Giáo hội nào, một phe cánh nào và một âm mưu nào lại là phải!
Hình như lúc đó có hai khuynh hướng trong phái Blăngki, phe nào phe
nấy đều không công nhận cho nhau cái quyền được cứu mạng những người