tưởng của tôi chạy trên trang giấy xám. Nếu mạch của tôi nghèo nàn, nếu
máu của tôi tím xanh, chẳng thà tôi chịu sự hành hạ của cảnh bần cùng,
những xuất ăn bốn xu, những cổ cồn bằng giấy bia, những khổ nhục vô
vàn!
Như thế, ít ra người ta còn có nỗi vui chua chát cảm thấy mình là kẻ
mạnh nhất ở cái xứ sở của tuyệt vọng, là bậc vĩ nhân của cảnh khố rách
thảm hại – vì đôi chút dũng cảm gì đó và vì đã học tiếng La-tinh.
Thế mà vào cái giờ giải thoát này, tôi tự thấy trần như nhộng trước nửa
triệu con người hào hiệp đã cầm vũ khí để được tự do và để không còn bị
chết đói… mặc dầu có việc làm, hoặc vì không có việc làm!
Chú mình từng chết đói, Vanh-trax ạ, và chú hầu như đã thất nghiệp
trong mười lăm năm. Bấy giờ, trong những lúc gian khổ, chú hẳn đã nghĩ
tới phương thuốc chống nạn đói, đã nghiền ngẫm những điều mới mẻ của
một bộ luật của công ty loài người!
Chú đã mang lại được điều gì mới từ đáy tuổi thanh niên thảm hại của
chú?
Hãy trả lời đi, kẻ nghèo khổ hôm qua!
Để trả lời, tôi giơ ra những vết tím bầm quanh cổ tay, và thè lưỡi sưng
vù lên vì những nhát kéo kiểm duyệt của Đế-chế.
Suy nghĩ! Học hỏi!
Lúc nào?…
Đế-chế gục, quân Phổ đến: giặc Phổ, Trô-suy, Fa-b-rờ, Sô-đây ngày 31
tháng mười, ngày 22 tháng giêng!… Người ta đã đủ bận để khỏi bị chết rét
chết đói và vừa nhằm đánh bọn Quốc phòng, vừa đương đầu với quân địch!
Lúc nào cũng ở thế chiến đấu, mai phục hoặc tiến lên!…
Vậy hãy đem mà bắc cầu những học thuyết xã hội, khi có những cục
sắt đó ném lên đĩa cân!