Trong cái giới nghiêm cách ấy, người ta ghét Napôlêông, nhưng người
ta không ưa những kẻ khốn khổ mà lời lẽ nặng mùi thuốc súng tháng Sáu
hơn mùi thuốc súng cuộc Đảo chính. Những kẻ chính chuyên của truyền
thống cộng hòa có râu đốm bạc ấy – cũng như Rôbexpie và tất cả bọn họ
theo gót Macximiliêng là tổ tiên họ - đều là những Briđoađông
nghiêm
khắc của hình thức cổ điển.
Còn bọn thắt ca-vát trắng ngồi kia, đã đọc sách của tôi, bọn hủ lậu ấy,
họ bị hoang mang về những đòn dư kích của tôi ít nhằm đánh vào tượng
bán thân của Bađinghê
hơn là bộ xương của toàn thể xã hội như nó đã
được tổ chức, xã hội chó má chỉ có đạn chỉ trút xuống luống cày, ở đó
những người nghèo quằn quại đau khổ và chết đói – như những con cóc bị
lưỡi cày cứa mất chân, thậm chí không đủ sức kêu lên trong đêm tối cuộc
đời của chúng những tiếng ảo não và lẻ loi!
Xong, vào giờ phút này, chính là niềm khinh bỉ, chứ không phải mối
tuyệt vọng căng đầy trái tim tôi, khiến nó nổ thành những lời lẽ mà tôi thấy
hùng hồn. Trong bầu im lặng, tôi thấy hình như những lời đó đánh trúng và
lóe sáng lên.
Nhưng những lời đó không có gia ngạnh của hận thù.
Chẳng phải tôi đánh trống cấp báo, mà là đánh trống tập kích, kiểu
như anh lính trống vừa thoát ra khỏi một vòng vây khủng khiếp và, đột
nhiên được đưa ra giữa ánh sáng, anh ngang nhiên và ngạo mạn, cười vào
mũi kẻ địch, bất chấp cả mệnh lệnh của viên sĩ quan, cả chỉ thị cả kỷ luật,
anh quẳng mũ có hiệu số xuống hố, xé phù hiệu và khua hiệu trống mỉa đời
với niềm say sưa của đội quân nhạc ở Balaklava
.
Sự thật, khi được đà, tôi phun bừa ra với họ tất cả những cái gì đã làm
tôi ngạt thở!
Tôi quên Banzăc đã chết để nói về những người đang sống, tôi lại
quên cả chửi Đế chế và, trước mặt đám tư sản ấy, tôi phất không phải chỉ lá
cờ đỏ mà cả lá cờ đen.