6 giờ sáng.
Tôi mất bốn mươi nhăm phút để tới hàng rào sắt của tòa nhà; tôi đi
qua sàn, leo lên bậc thềm, ẩy cái cửa kính to, tôi cảm thấy cũng bối rối như
đứng ở ngoài phố. Đám đầy tớ ở kia, họ ngáp dài, mở cửa sổ, và rũ thảm.
Tôi nhờ họ báo cho Jăng, anh bầu buồng, để anh báo với chủ anh là tôi đến.
Cuối cùng, tôi đứng trước mặt hắn.
Bộ mặt lờn lợt làm sao! Bộ mặt của vài hề hãm tài!
Một bộ mặt thiếu máu của mụ đĩ già hoặc của đứa trẻ già sớm, trắng
màu tái xanh, và ló đôi mắt có ánh hào quang sáng chói như kính cửa.
Người ta ngỡ đầu một người chết mà một anh thợ vẽ bông lơn đã bịt lỗ
mắt bằng hai chiếc thẻ trắng, rồi đem đặt trên chiếc áo ngủ kia, có vẻ áo
thầy tu rũ xuống trước một bàn giấy đầy giấy má xén nhem nhở và chiếc
kéo ngoặc lưỡi.
Không ai ngờ trong đó lại có một nhân vật!
Thế mà cái bị len đó lại chứa một trong những tay đột xuất của thế kỷ,
một con người thuần gân và móng, đã vương cẳng và mõm khắp nơi từ ba
chục năm nay. Nhưng, cũng như giống mèo, hắn nằm im khi không cảm
thấy, vừa tầm của nó, một con mồi nào để chộp hoặc cấu xé.
Vậy là hắn ngồi kia, cái tay khích động tư tưởng ấy, mỗi ngày hắn nẩy
ra một ý vào hồi mỗi tối có một cuộc bạo động, cái tay đã tóm cổ
Cavainhac ném xuống chân ngựa đang nhẩy xổ vào tấn công những rào
chướng ngại tháng Sáu. Hắn đã thủ tiêu cái vinh quang ấy, cũng như hắn đã
giết chết một người cộng hòa trong một trận đấu súng khét tiếng.
Bây giờ người ta không còn thấy dưới da hắn cũng như trên bàn tay
hắn vết máu – cả máu hắn lẫn máu người khác!
Không, đấy không phải cái đầu người chết, đấy là một khối băng tròn
trên đó lưỡi dao đã vẽ và đục một hình người, và tạc bằng mũi nhọn đê tiện
của nó, tính vị kỷ và nỗi ghê tởm những cái này làm thành những vết bẩn
và những vệt tối, tựa như tan giá thật sự trên mầu trắng của băng.