XIV
Bri-ốt-nơ
: một Jê-du lác mắt – với chiếc mũ của Ba-ra-bax
. Nhưng
chẳng cam chịu, rút lưỡi dao ra khỏi cạnh sườn mình, và bị toạc tay vì bẻ
gẫy những mũi gai còn trên trán, kẻ bị hình cũ ở nơi hành hình gọi là khám
lớn.
Bị kết án năm năm vì làm hội kín, được thả về trước vài tháng vì thổ
ra huyết, trở về Pa-ri không một xu dính túi, hai buồng phổi không lành lại
được – nhưng linh hồn Cách mạng đóng chốt vào thân hình!
Giọng nói thấm thía, xuất phát từ một trái tim bị thương như từ một
cây đàn vi-ô-lông-xen rạn nứt; cử chỉ bi tráng: cánh tay giơ thẳng như để
tuyên thệ; đôi lúc từ đầu tới chân rung chuyển vì một cái rung mình của cô
đồng cổ đại; và đôi mắt, như những lỗ khoét bằng dao, chọc thủng trần nhà
ám khói của phòng câu lạc bộ, chẳng khác gì một nhà truyền giáo gia-tô
bằng con mắt say đạo chọc thủng nóc nhà thờ và hướng lên trời.
Giữa những cơn ốm đau và thời gian thất nghiệp, giành thì giờ nghiên
cứu những sách lớn từ đó anh đã hút nhựa và nhai tủy. Cái đó nâng đỡ anh,
như máu bò uống nóng ở lò sát sinh. Sống bằng nhiệt tình của anh – trái tim
nâng đỡ lồng ngực; thậm chí đã rút ra từ bệnh hoạn của mình một lý thuyết,
nó ở ngoài ý thức của anh, là con để niềm đau khổ của anh, và gây hoảng
sợ trên môi anh: “Tư bản sẽ chết nếu sáng sáng người ta không lau guồng
máy của nó bằng mỡ người. Đối với những con vật bằng gang thép ấy, phải
có sự lau chùi và sức đẩy của người thợ”.
Đối với chính bản thân anh, cũng cần phải có sự lau chùi những lá
phổi rỉ máu, và cần phải có vài giọt loại dầu gọi là rượu vang cho cái cơ thể
xộc xệch của anh.
Đừng hòng nghĩ tới chuyện đó: anh ăn gọi là và uống nước lã. Anh
làm nghề làm hoa lá giả nhưng hoa lá không cứu được anh. Việc sử dụng
công cụ lao động gậm nhấm nốt cái sức sống còn lại của anh – chất độc và
hùa với đói khát.