mà. Mặt ông ta thoáng hiện lên một cái vẻ của Amos ngày xưa. Ông ta
đang tức, tôi biết. “Jonas, tôi quyết định nói cho anh rõ một đôi điều”.
- Điều gì vậy, ông Amos?
- Thưa ông Winthrop, động cơ có thể lắp lại được rồi ạ. – Một công nhân
từ ngưỡng cửa nói vọng vào.
- Tôi ra ngay đây. – Amos quay lại phía tôi. – Anh nhớ nhắc tôi nói lại
chuyện này, sau khi ta thử xong về nhé.
Tôi ngoác miệng cười, nhìn ông ta bước ra khỏi cửa. Ít nhất thì ông ta
cũng không quá trở thành thánh thiện đến mức tôi không trêu gan ông ta
được nữa. Tôi nhỏm dậy, quờ quờ chân dưới gầm đi văng tìm giầy.
Khi ra đến bên ngoài, tôi thấy cái động cơ đang chạy vù vù, trơn tru.
“Máy bay tôi thấy giờ ổn rồi đấy”, Amos thốt lên, quay lại nhìn tôi.
Tôi xem đồng hồ. Bốn rưỡi. “Vậy thì đi nào. Ta còn đợi gì nữa?”
Amos đặt bàn tay lên cánh tay tôi. “Tôi không thể khuyên anh bỏ được ý
định ấy đi sao?”
Tôi lắc đầu. Mười bảy triệu đôla là một món quá to, không thể làm cái gì
được cả. Ông ta khum hai tay lên miệng làm loa, gọi lớn: “Tất cả mọi
người, trừ tổ bay, ra khỏi máy bay ngay!”
Gần như ngay lập tức, động cơ tắt lịm, im lặng bao trùm cái triền đà.
Mấy phút sau, người cuối cùng đã leo khỏi cầu đổ bộ. Một người đàn ông
thò đầu qua cái cửa sổ nhỏ xíu của cabin lái: “Thưa ông Winthrop, đã ra hết
rồi ạ, trừ có tổ bay”.