Nêvađa không hề thay đổi. Từ cái lúc tôi mới lên năm và lần đầu tiên
nhìn thấy anh đi tới hàng hiên trước, anh vẫn như thế. Cái dáng đi vất vả,
khuỳnh khuỳnh vòng kiềng, xiêu xiêu, dường như không bao giờ quen rời
mình ngựa. Những nếp nhăn bé xíu trăng trắng vì sương gió ở khoé mắt.
Đã mười sáu năm trời. Khi đó là năm 1909.
Tôi đang lúi húi trơi ở góc hiên và cha tôi thì đang đọc tờ tuần báo Renô
trên cái ghế xích đu to ở gần cửa chính. Đã tám giờ sáng và mặt trời đã lên
khá cao rồi. Tôi nghe thấy tiếng vó ngựa khua lốp cốp và chạy ra xem.
Một người đàn ông đang xuống ngựa. Anh ta chuyển động chậm chạp
một cách cố tình. Quẳng dây cương lên cái cọc buộc ngựa, anh ta đi về phía
nhà. Đến chân thềm, anh ta dừng lại và ngước lên.
Cha tôi bỏ tờ báo xuống, đứng dậy. Ông ta là một người cao lớn. Một
mét tám lăm. Vạm vỡ. Mặt hồng hào, da xạm lại vì nắng. Ông nhìn xuống.
Nêvađa ngước nhìn ông: "Ông Giônơx Cođơ?"
Cha tôi gật đầu: "Phải"
Người đàn ông hất chiếc mũ chăn bò vành rộng về phía sau, để lộ ra mái
tóc đen nhánh. "Nghe đâu ông đang cần một người làm thì phải".
Cha tôi không bao giờ trả lời có hay không trước bất kỳ một câu hỏi nào.
"Thế anh có thể làm được cái gì?" - Ông hỏi.
Nụ cười của người đàn ông không để lộ ra cái gì cả. Anh ta đưa mắt từ từ
nhìn ngôi nhà rồi nhìn ra sa mạc. Anh ta quay lại phía cha tôi: "Tôi có thể
chăn gia súc, nhưng ông chẳng có con nào. Tôi có thể chữa hàng rào. Mà
hàng rào thì nhà ông cũng chẳng có".