mà mang một con vật như thế này đến bất kỳ đâu gần Colorado hay
Wyoming, chúng nó sẽ xử anh rồi cuỗm luôn. Anh biết sao không? Vì
trước Thế Chiến Cuối, thực sự chỉ còn mấy trăm con thôi…”
“Nhưng,” Rick cắt ngang, “anh có tận hai con ngựa còn tôi chẳng có con
nào, thế là vi phạm cấu trúc thần học và đạo đức căn bản của đạo Mercer.”
“Anh có con cừu đấy thôi. Mẹ nó, anh có thể theo dõi cuộc Lên dốc
trong đời sống cá nhân của anh, và khi anh nắm lấy hai quai hộp thấu cảm,
anh tiếp cận một cách vinh dự. Nếu mà anh không có con cừu già đó, tôi
còn thấy lập luận của anh có chút logic. Chắc chắn, nếu tôi có hai con vật
và anh không có con nào, thì đúng là tôi đang góp phần tước khỏi anh cơ
hội hòa cảm với Mercer. Nhưng mọi gia đình trong tòa nhà này – xem nào,
chừng năm mươi gia đình: cứ ba căn hộ có một gia đình, như tôi tính – mỗi
một gia đình đều có một con vật loại này hay loại khác. Nhà Graveson có
con gà kia.” Anh ta chỉ về phía Bắc. “Oakes và vợ có con chó to màu đỏ
sủa ban đêm.” Anh ta suy tư. “Tôi nghĩ Ed Smith có con mèo nuôi dưới
nhà. Ít nhất anh ta bảo thế, nhưng chưa ai thấy bao giờ. Có lẽ anh ta chỉ giả
vờ.”
Bước lại chỗ con cừu của mình, Rick cúi xuống, lần tìm dưới lớp len
trắng dày – ít nhất bộ lông cũng thật – cho đến khi thấy thứ gã muốn tìm:
bảng điều khiển máy được giấu kín. Trước mắt Barbour gã mở nắp, để lộ
bảng điều khiển. “Thấy không?” gã nói với Barbour. “Giờ anh hiểu tại sao
tôi muốn con ngựa non của anh đến thế rồi chứ?”
Sau một lát, Barbour nói, “Khổ thân anh. Từ đầu đến giờ vẫn như vậy
à?”
“Không,” Rick nói, một lần nữa đóng nắp che trên con cừu điện. Gã
đứng thẳng dậy, quay lại đối mặt người hàng xóm. “Ban đầu tôi có một con
cừu thực. Bố vợ tặng không cho chúng tôi khi ông ấy di cư. Rồi cách đây
một năm, còn nhớ lúc tôi mang nó đến bác sĩ thú y không – sáng hôm đó
anh ở đây, lúc tôi đi ra thấy nó nằm vật ra không đứng dậy được.”