nhiêu khả năng khác – lại tìm được sinh vật linh thiêng nhất với Mercer.
Chúa ơi, gã nghĩ, không thể nào. Có lẽ não bộ mình đã tổn hại do tiếp xúc
với phóng xạ. Mình là kẻ đặc biệt. Có chuyện gì đó đã xảy ra với mình.
Như tên não gà Isidore và con nhện của hắn. Chuyện xảy ra với hắn cũng
đang xảy ra với mình. Có phải Mercer sắp xếp chuyện này không? Nhưng
mình là Mercer. Mình sắp xếp chuyện này. Mình tìm thấy con cóc. Thấy nó
vì mình nhìn qua cặp mắt của Mercer.
Gã ngồi xổm xuống, cạnh con cóc. Nó đã bới lớp cát thành cái lỗ nông,
kê cái mông chễm chệ thay vào đó. Chỉ còn cái đầu bẹt cùng cặp mắt là nhô
lên mặt đất. Trong khi đó, việc trao đổi chất của nó chậm lại đến mức gần
như dừng hẳn, nó đã chuyển vào trạng thái ngủ mê.
Đôi mắt không phát sáng, không biết đến gã, và trong cơn kinh hoảng, gã
nghĩ nó đã chết, có lẽ vì khát. Nhưng nó đã cử động.
Đặt hộp các-tông xuống, gã bắt đầu cẩn thận gạt chỗ đất vụn ra xa con
cóc. Nó dường như không phản kháng, nhưng dĩ nhiên nó không nhận biết
có gã tồn tại ở đây.
Khi nâng con cóc lên, gã cảm thấy người nó mát lạnh khác thường.
Trong tay gã, thân thể nó có vẻ khô và nhăn nhúm – gần như là mềm nhẽo
– và lạnh như thể nó đã trú ngụ trong một hang động sâu hàng dặm dưới
mặt đất, cách xa khỏi mặt trời. Lúc này con cóc ngọ nguậy, đạp hai chân
sau yếu ớt. Nó cố thoát khỏi nắm tay gã, theo bản năng, nó muốn nhảy ra.
Một con to, gã nghĩ, đã trưởng thành và khôn ngoan. Đủ sức sống sót, theo
cách của nó, vượt qua cả những điều chúng ta không hẳn là qua được. Mình
tự hỏi không biết nó tìm nước ở đâu để đẻ trứng.
Vậy đây là điều Mercer thấy, gã nghĩ khi cẩn thận buộc chặt hộp các-
tông – buộc hết vòng này đến vòng khác. Sự sống mà chúng ta không còn
nhìn ra được. Sự sống thận trọng vùi mình ngập đến trán trong cái thây của
một thế giới đã chết. Trong mỗi mẩu xỉ than của vũ trụ, hẳn Mercer đều
nhận thức được sự sống người thường không thể nhận ra. Giờ mình đã biết,