Nhưng đúng thế đấy: ta phải đào cái huyệt này, sâu mét tám, và nó phải phù
họp với lợi ích của gia đình và lợi ích của người chết."
"Tôi đứng đây xem anh có phiền không?"
"Không sao. Đây là một cái huyệt dễ đào. Không gặp phải đá. Cứ thế
thẳng tiến."
Ông quan sát ông ta cắm xẻng xuống xúc đất lên rồi dễ dàng hất lên tấm
gỗ dán. Vài phút một lần ông lại dùng cái chĩa làm tơi đất thành huyệt rồi
chọn một trong hai cái xẻng đào tiếp. Thỉnh thoảng có một hòn đá nhỏ bị
hất lên tấm ván, nhưng hầu như những gì lấy ra khỏi huyệt chỉ là đất nâu
ẩm, dễ dàng tơi ra khi rời lưỡi xẻng.
Ông quan sát từ bên cạnh tấm bia mộ mà người đào huyệt đã chọn để đặt
những vuông đất sau tang lễ sẽ đắp trở lại huyệt mới đào. Mặt huyệt vừa
khít tấm ván gỗ dán nơi những vuông đất giờ an tọa. Ông vẫn chưa muốn
đi, không phải lúc này khi chỉ cần quay đầu lại là ông có thể trông thấy bia
mộ cha mẹ. Ông không bao giờ muốn đi.
Chỉ tay vào tấm bia, người đào huyệt nói, "Ông bạn này đã chiến đấu
trong Thế chiến thứ hai. Tù nhân chiến tranh ở Nhật. Tử tế kinh lên được.
Tôi biết ông ấy từ cái hồi ông ta còn hay lui tới đây thăm mộ vợ. Một gã tử
tế. Luôn là một người tốt. Là kiểu người sẽ dừng lại giúp đỡ khi ta bị hỏng
xe giữa đường."
"Vậy ra anh quen biết một vài trong số những người ở đây."
"Ừ chắc chắn rồi. Ở đây có một cậu bé, mới mười bảy. Chết trong một
vụ đâm xe. Bạn bè nó đến và đặt bia lon lên mộ. Hoặc là cần câu cá. Nó
thích câu cá."
Ông ta gõ gõ cái xẻng xuống tấm ván cho sạch một cục đất bám rồi lại
tiếp tục đào. "Ô," ông ta nói, nhìn qua nghĩa trang ra đường, "bà ấy đến rồi