Phần 5
Bên trên cánh cổng qua đó gia đình ông tiến vào phần diện tích ban đầu
từ thế kỷ mười chín của cái nghĩa trang cũ kỹ ấy là một vòm cong ghi tên tổ
chức xây nó bằng tiếng Hebrew; mỗi đầu của vòm cong khắc một ngôi sao
sáu cánh. Hai cột đá của cánh cổng đã vỡ tàn vỡ tệ và nhiều mảnh đã văng
ra xa vì thời gian và vì nạn phá hoại của công - và một cánh cổng sắt uốn
gắn ổ khóa gỉ sét vốn chẳng cần đẩy cũng vào được nhưng cũng đã sắp long
khỏi bản lề và sệ ngập xuống đất đến vài phân. Bia đá của đài tưởng niệm
mà họ đi qua - khắc những câu kinh Do Thái, và tên của các gia đình được
chôn cất trong nghĩa trang - cũng chẳng chống cự khá hơn với hàng thập kỷ
thời gian. Phía trước những dãy bia mộ thẳng đứng san sát là một lăng nhỏ
xây bằng gạch trên khu cũ, có cửa ra vào bằng thép uốn hoa văn và hai ô
vốn trước đây là cửa sổ - chúng, vào thời những chủ nhân của lăng được
mai táng, hẳn đã từng được tô điểm bằng nghệ thuật kính màu - giờ đã bị bít
kín bằng những khối bê tông để ngăn đám người vô ý thức phá hoại thêm
nữa, vậy nên giờ tòa nhà nhỏ vuông vắn này trông giống một nhà kho bỏ
hoang hay một toa lét ngoài trời không còn ai sử dụng hơn là chốn an nghỉ
vĩnh hằng xứng tầm với tiếng tăm, sự giàu có, hay địa vị của đám người đã
xây dựng nó làm nơi trú ẩn cho những người thân đã chết. Chậm chạp, họ
đi qua giữa những tấm bia mộ thẳng đứng chủ yếu khắc tiếng Hebrew
nhưng trong vài trường hợp cũng ghi những lời tiếng Yiddish, tiếng Nga,
tiếng Đức, thậm chí là tiếng Hung. Hầu hết đều khắc thêm Ngôi sao David,
nhưng số còn lại thì được trang trí trau chuốt hơn, với một đôi tay ban
phước, một chiếc bình hay chúc đài năm nhánh.
Trên mộ của trẻ con và
trẻ sơ sinh - có nhiều hơn vài nấm, dù vẫn không bằng số mộ phụ nữ chết
khi mới đôi mươi, nhiều khả năng là trong khi sinh nở - thỉnh thoảng họ bắt
gặp một tấm bia khắc hình con cừu phía trên hay trang trí bằng hình khắc
thân cây bị cưa đi phần ngọn, và khi họ đi hàng một qua những lối mòn
quanh co, gập ghềnh, nhỏ hẹp của khu nghĩa trang cũ tiến đến khoảnh đất ở