đủ rộng cho tất cả bọn họ, chung sống dưới một mái nhà. Ông sẽ trả tiền
sinh hoạt phí cho cả nhà còn Nancy có thể lo được cho bản thân và nuôi
con. Cô có thể giảm bớt thời gian đi làm còn ba buổi một tuần và dành cả
bốn ngày còn lại cho bọn trẻ, như cô hằng ao ước - nhưng không thể vì
thiếu tiền - từ khi đi làm trở lại sau nghỉ đẻ. Nancy, hai đứa sinh đôi, và
ông. Đó là một kế hoạch đáng đề nghị với cô. Có thể cô sẽ không ngại ông
giúp, mà ông thì đang khát khao có ai đó thân thiết ở bên, người ông có thể
cho đi và được nhận lại, và trên đời này, còn ai tốt hơn Nancy?
Ông cho mình vài tuần để quyết định xem kế hoạch này khả thi đến đâu
và đánh giá xem nếu đưa nó ra thì mình có vẻ tuyệt vọng tới mức nào. Cuối
cùng, khi ông vừa quyết định tạm thời sẽ khoan đề nghị gì với Nancy mà đi
New York một ngày, tìm hiểu khả năng tìm được một căn hộ hợp túi tiền,
đủ chỗ cho cả bốn người bọn họ sống thoải mái đã, thì tin xấu dồn dập đổ
đến qua điện thoại, hôm trước là về Phoebe và hôm sau là về ba đồng
nghiệp cũ.
Ông biết tin Phoebe bị đột quỵ khi điện thoại đổ chuông vào lúc hơn sáu
rưỡi sáng một chút. Nancy gọi từ bệnh viện. Một tiếng trước đó Phoebe đã
gọi Nancy báo mình không khỏe, và trước khi Nancy đưa được bà tới
phòng cấp cứu, lưỡi bà đã líu lại khiến hầu như chẳng ai hiểu được bà nói gì
còn tay phải đã mất khả năng cử động. Họ vừa chụp cộng hưởng từ xong và
Phoebe đang nghỉ trong phòng.
"Đột quỵ ư? Với một người trẻ trung và khỏe mạnh như mẹ con? Có liên
quan gì tới chứng đau nửa đầu không? Có thể như thế không?"
"Họ nghĩ là do loại thuốc chữa đau nửa đầu mẹ vẫn uống," Nancy nói.
"Đó là loại thuốc đầu tiên có tác dụng. Mẹ biết thuốc đó có một nguy hiểm
nhỏ là gây ra đột quy. Mẹ biết. Nhưng một khi đã thấy nó có tác dụng, một
khi mẹ đã cắt được cơn đau lần đầu tiên trong vòng năm mươi năm, mẹ
quyết định nó đáng để mạo hiểm. Mẹ đã có ba năm thần kỳ thoát khỏi cơn
đau. Đó là tuyệt phúc."