“Cậu Mangan bảo tôi…” ông nói, “tiến sĩ Grimaud…”
“Tiến sĩ Grimaud đã chết,” Hadley nói.
Drayman vẫn ngồi thẳng hết mức cái lưng còng của ông cho phép, hai tay
khoanh lại đặt trên mũ. Một sự im lặng nặng nề hao trùm căn phòng.
Drayman nhắm mắt và mở mắt ra. Rồi có vẻ như ông ta nhìn ra xa, vừa thở
vừa rít lên nặng nề và chậm chạp.
“Chúa giúp linh hồn ông ấy an nghỉ,” Drayman nói, rất lặng lẽ. “Charles
Grimaud là một người bạn tốt.”
“Ông có biết ông ấy chết vì nguyên nhân gì không?”
“Có. Cậu Mangan đã nói với tôi.”
Hadley chăm chú quan sát ông. “Vậy thì ông hiểu rằng nói tất cả, tất cả
những gì ông biết, là cách duy nhất để giúp chúng tôi bắt kẻ đã giết bạn ông
chứ?”
“Tôi… Vâng, tất nhiên rồi.”
“Phải thật chắc chắn, ông Drayman! Chắc chắn hơn bình thường. Chúng
tôi muốn biết về quá khứ của ông ấy. Ông biết ông ấy rất rõ. Lần đầu tiên
hai người gặp nhau là ở đâu?” Khuôn mặt dài của ông Drayman trông rất bối
rối, có cảm tương như những đường nét đã trở nên lộn xộn. “Ở Paris. Ông
ấy lấy bằng tiến sĩ ở trường đại học năm 1905, cùng năm tôi… cùng năm tôi
quen biết ông ấy.” Những kí ức như đang lẩn tránh Drayman. Ông ta đưa tay
lên trán, và giọng nói của ông cáu kỉnh như thể một người đang hỏi xem
người ta giấu cái ghim cài cổ áo của mình ở đâu. “Grimaud rất thông minh.
Ông ấy nhận danh hiệu phó giáo sư ở Dijon một năm sau đó. Nhưng một
người họ hàng qua đời hay đại loại thế, và để lại cho ông ấy một khoản thừa
kế kha khá. Một thời gian ngắn sau ông ấy bỏ việc và đến nước Anh. Đó là
theo những gì tôi biết. Sau đó nhiều năm, tôi không gặp ông ấy. Đó có phải
điều các ông muốn biết không?”
“Ông có biết gì về ông ấy trước năm 1905 không?”