một tia sáng lóe lên từ mặt dây chuyền bạc đeo trên cổ của Chân nai, nhưng
gương mặt cậu ta hoàn toàn vắng bóng nụ cười. Ánh nhìn chằm chằm của
cậu hướng vào máy ảnh từ bên dưới lớp tóc mái đen nhánh nom rất tập
trung và nghiêm nghị. Vào tháng 12 năm 1942, Chân nai là một cậu bé gầy
còm, đen nhẻm và thậm chí chưa có râu. Tôi đoán tuổi cậu ta tối thiểu mười
ba và tối đa mười lăm.
Ông Hans Andersson mỉm cười trong thoáng chốc trước sự ngạc nhiên
của tôi và tiếp tục nói trước khi tôi kịp đặt câu hỏi.
“Tôi không biết Chân nai tên là gì, đến từ đâu và bao nhiêu tuổi. Lần đầu
tiên tôi hỏi tuổi, cậu ấy chỉ cười và đùa rằng mình mới mười tuổi và to xác
so với tuổi. Tôi chưa bao giờ nhận được một câu trả lời chính xác sau đó.
Chân nai phổng phao thêm một chút trong những năm tôi biết cậu ấy,
nhưng tôi không nghĩ cậu ấy có thể lớn hơn mười sáu tuổi vào lần cuối tôi
gặp cậu, hồi mùa đông năm 1944.”
Ông bước đến bên tôi và chỉ vào tấm hình.
“Tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy không đeo cái mặt dây chuyền này. Hình
như đó là một cái bùa mà cậu ấy luôn đeo. Anh có thể thấy gương mặt cậu
ấy nghiêm túc và già dặn đến như thế nào trong hình. Đó là những gì mà
chúng tôi dễ thấy nhất. Cậu ấy bị ảnh hưởng nặng nề khi lớn lên trong
chiến tranh, nhưng đôi khi cậu ấy cũng có một gương mặt trẻ con và vui vẻ
hơn. Đó không phải là một người dễ nắm bắt.”
Tôi tin ngay điều đó. Chân nai chắc chắn không phải là một người dễ
nắm bắt và càng khó bắt giữ. Trong tấm hình, các đường nét trên khuôn
mặt cậu rất mờ nhạt và không nhắc tôi nhớ đến bất kỳ người nào tôi từng
gặp cho đến nay trong cuộc điều tra này. Điều này chỉ làm tôi bực bội hơn,
vì tôi càng lúc càng có cảm giác rằng cậu bé nghiêm nghị trong tấm hình từ
năm 1942 này về mặt nào đó đang nắm giữ chìa khóa giải mã vụ sát hại
ông Harald Olesen hiện giờ, vào năm 1968. Tôi dừng một lúc để nghĩ đến
một câu hỏi quan trọng.
“Ấn tượng của ông về mối quan hệ giữa hai người họ - ông Harald
Olesen và Chân nai, là gì?”
Hans Andersson trầm ngâm gật đầu.