mặt ông Harald Olesen, tay kia co thành nắm đấm vung vẩy lung tung,
miệng nói liên hồi và gằn giọng như một khẩu súng máy. Ông Harald
Olesen ngược lại hầu như không nói từ nào. Ông dựa vào tường, mặt cắt
không còn hột máu và run rẩy đến nỗi tôi sợ rằng ông ấy sẽ ngất đi bất kỳ
lúc nào. Đó thật sự là một cảnh tượng không thể tin được. Tôi chưa từng
thấy hai người họ như vậy trước đây. Khi tôi chào tạm biệt họ nửa tiếng
sau, mọi thứ lại bình thường như cũ. Chân nai lại nở nụ cười tinh nghịch và
đùa giỡn với cô bé con một lúc trước khi đi. Chuyện đó khiến tôi tự hỏi
phải chăng điều tôi đã thấy là một giấc mơ lạ thường. Nhưng không phải
vậy. Một khi họ đã đi khỏi, tôi tiến lại chỗ bức tường. Rõ ràng vẫn còn
những dấu vết cho thấy họ đã ở đây, và dấu giày của ông Harald Olesen
còn lún sâu trong tuyết.”
Tôi gật đầu. Việc Chân nai nổi giận và đe dọa ông Harald Olesen có vẻ
khá phù hợp với những gì diễn ra hai mươi bốn năm sau đó.
“Đó có phải là lần cuối cùng ông gặp cả hai người họ?”
Hans Andersson gật đầu.
“Phải - có thể nói là gần như thế. Không ai trong số họ quay lại đây trong
chiến tranh và tôi không nhìn thấy hay nghe nói đến Chân nai từ đó. Nhưng
tôi có gặp ông Harald Olesen vài năm sau chiến tranh. Lần đó tôi đến thăm
gia đình ở Oslo khi ông ấy đang có bài phát biểu tại thành phố. Tôi đến nói
chuyện với ông sau đó.
Ông nhận ra tôi và cảm ơn tôi về tất cả sự giúp đỡ trong chiến tranh,
nhưng ông ấy rõ ràng đang rất bận và không sẵn lòng để trò chuyện. Nhiều
năm qua tôi thường tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Chân nai, thế nên tôi cố
gặng hỏi. Nhưng ông ấy chỉ lẩm bẩm rất khẽ rằng đó là một câu chuyện
buồn. Rồi ông ấy cáo từ vì phải đến một nơi nào đó và vội vã đi ngay.”
Chúng tôi im lặng trong một lúc. Rõ ràng là ông Harald Olesen không
muốn nhắc đến chuyến đi thảm họa lẫn người dẫn đường của mình, và chắc
chắn ông ấy phải có lý do mới làm như thế. Tôi đã suy nghĩ nát óc để cố
hiểu xem đó có thể là gì, cũng như ai là người biết rõ hơn về chuyện đó và
Chân nai ngoài ông Olesen quá cố.