phòng của cháu nội mình. Việc bước chân vào căn nhà của ông Borchmann
cho tôi cảm giác như đang trở lại những năm 1930.
Thư ký của giáo sư Borchmann chỉ tôi lối đi nhanh nhất đến văn phòng
của giám đốc. Cái cầu thang với hai mươi ba bậc vẫn dài y như trong ký ức
tuổi thơ tôi. Khi tôi lên đến nơi, Ragnar Borchmann đã chờ ở đó, và vẫn bệ
vệ như ngày nào. Gương mặt ông nay nhuốm một chút u sầu, nhưng lưng
ông vẫn thẳng; râu tóc vẫn đen, và cái bắt tay cùng giọng nói vẫn uy lực
như trong trí nhớ của tôi.
“Chào anh, và một lần nữa chúc mừng anh về những thăng tiến gần đây.
Tôi hoàn toàn chắc chắn anh sẽ vượt qua thách thức này. Giờ tôi nên gọi
anh là Kolbjorn hay Thanh tra Cảnh sát Kristiansen?”
Tôi quả quyết với ông mình vẫn sẽ xem như đó là một lời khen nếu ông
chọn gọi tôi là Kolbjorn, nhưng để cho an toàn, tôi vẫn sẽ gọi ông là ‘Giáo
sư Borchmann’. Ông cười, nhưng không phản đối.
“Trước hết, tôi phải xin anh tha lỗi vì đã dụ anh đến đây bằng cái cớ giả,
nhưng với ý định tốt. Đáng buồn là bản thân tôi không giúp ích được gì.
Tôi dĩ nhiên từng gặp ông Harald Olesen trong mấy thập kỷ qua, nhưng dạo
gần đây ít hơn hẳn. Nếu chưa xúc tiến thì anh cần nói chuyện với Thẩm
phán Tòa án Tối cao Jesper Christopher Haraldsen về những năm chiến
tranh và Thư ký Đảng Lao động Haavard Linde về các vấn đề chính trị và
về đảng. Nhưng ngoài chuyện đó ra, tôi e rằng tôi không mấy hữu ích cho
việc điều tra.”
Tôi chưa tiến xa đến mức tiếp xúc với bất kỳ ai trong hai quý ông quyền
lực mà giáo sư vừa đề cập, nhưng ông ấy hoàn toàn có lý khi cho rằng tôi
nên liên lạc với họ. Như vậy nguyên do vì sao tôi phải đến nơi này vẫn là
một bí ẩn. Ông Borchmann thấy sự lúng túng trên gương mặt tôi và nhanh
chóng tiếp lời.
“Tôi e rằng việc này vừa không chính thống vừa kỳ quặc, nhưng người
anh cần gặp không phải là tôi mà là Patricia.”
Vẻ lúng túng của tôi không hề giảm đi sau lời giải thích tiếp theo của
ông - dưới dạng một câu hỏi hoàn toàn bất ngờ.