đứng đó trong năm phút, tự hỏi rằng trước tôi, bàn tay của kẻ nào đã bật
cuộn băng này.
Khi đã hoàn hồn, tôi gọi lại cho Patricia, cô nhấc điện thoại ngay hồi
chuông đầu tiên. “Có phải tiếng súng vang lên ở cuối cuộn băng không?”
cô hỏi.
Tôi lúng búng một chữ ‘phải’ đầy nhẫn nhục, và hai chữ ‘chúc mừng’
còn khẽ hơn, rồi sau đó giải thích với giọng rõ nghe hơn rằng tiếng súng
vang lên ở cuối cuộn băng cassette thu Bản giao hưởng số 9 của
Beethoven. Tôi gần như cảm thấy đầu dây bên kia rung lên khi cô thở ra.
“Ơn Chúa lòng lành. Tôi gần như đã bắt đầu thấy lo. Hãy nhớ kiểm tra
dấu vân tay trên băng cassette và dàn âm thanh, nhưng đừng thất vọng nếu
không tìm thấy gì. Chúng ta đang đối mặt với một tên sát nhân đặc biệt xảo
quyệt.”
Tôi đáp lại rằng đây đúng là một trường hợp như vậy, nhưng sẽ hữu ích
nếu biết bằng cách nào hắn đã rời khỏi hiện trường và liệu có cần chỉnh lại
thời gian gây án lên sớm hơn gần hai mươi lăm phút hay không. Điều này
phần nào gây bối rối cho Patricia.
“Từ từ đã nào. Thứ nhất, tôi không hoàn toàn chắc chắn đó là một người
đàn ông và thứ hai, anh lấy hai mươi lăm phút đó ở đâu ra?”
Tôi mỉm cười nghĩ rằng lần này tôi đã đi trước cô và cho cô biết cuộn
băng cassette đó có thời lượng hai mươi lăm phút. Tôi chờ đợi một từ ‘à
ha’, nhưng thay vào đó chỉ nhận được một cái thở phào và một câu hỏi tàn
nhẫn khác.
“Nhưng chúng ta không có bằng chứng nào cho thấy kẻ sát nhân đã bật
băng cassette ngay sau khi gây án, đúng không?”
Dĩ nhiên tôi phải thừa nhận điều đó. Thủ phạm trên lý thuyết có thể ở
trong căn hộ lâu như mức gã hoặc ả muốn trước khi bật cassette và đi ra.
Tương tự như vậy, đoạn băng có thể cũng đã được tua tới và án mạng chỉ
xảy ra vài phút trước khi tiếng súng vang lên. Tôi chợt nhớ ra bác sĩ pháp y
chỉ có thể thu hẹp khoảng thời gian gây án trong khoảng từ 8 đến 11 giờ tối.
Patricia và tôi lập tức nhất trí rằng bất kỳ ai không có bằng chứng ngoại
phạm vững chắc trong khoảng 8 giờ đến 10 giờ 10 phút đều có thể bị xem