thám tử này biết được không?”
Chất giọng sắc lạnh của tôi làm Patricia nhăn nhó khó chịu một lúc. Sau
đó cô mỉm cười đấu dịu, nhưng vẫn có vẻ lém lỉnh ngấm ngầm. Đột nhiên,
cô lại giống như một cô gái mười-tám-tuổi nhiều chuyện trong chuyến dã
ngoại của trường.
“Theo giả thuyết thứ hai và đáng xấu hổ hơn đó, anh ta dĩ nhiên đang ở
tầng một. Trong phòng ngủ của căn hộ 2A, hay cụ thể hơn là… trên người
cô Sara Sundqvist!”
Cô phá lên cười một lần nữa, lần này chắc do biểu cảm trên gương mặt
tôi.
“Điều đó ăn khớp một cách đáng kinh ngạc, không phải vậy sao? Nó sẽ
giải thích được người tình bí mật của cô ta và điểm đáng lưu ý là người này
chưa từng bị nhìn thấy bởi bà vợ ông gác dan hoặc một ai khác. Điều đó
cũng giải thích được tại sao Kristian Lund bướng bỉnh khẳng định trước
mặt vợ rằng anh ta không về nhà sớm hơn.”
Dĩ nhiên là nó ăn khớp một cách đáng kinh ngạc. Bao gồm cả phản ứng
của bà vợ ông gác dan, giờ tôi mới nghĩ đến điều đó. Việc duy nhất mà nó
không giải thích được là tại sao tôi không nhìn ra khả năng đó. Và tại sao
bà vợ ông gác dan lại nói dối. Nhưng mặc dù Kristian Lund có thêm nhiều
điểm không thống nhất và cần giải thích, tôi vẫn không tài nào nhìn ra một
sát thủ máu lạnh nơi ông bố trẻ đầy lo âu đó.
Tổng kết lại, Patricia đồng ý rằng để cho thận trọng, tôi chỉ nên cho báo
chí biết về sự thay đổi thời gian xảy ra án mạng và câu chuyện đằng sau nó
vào Chủ nhật, sau khi đã đối chất với những người hàng xóm. Cô bảo tôi đã
‘đúng’ khi cho rằng nên gây áp lực lên kẻ sát nhân hơn là tạo một cảm giác
an toàn giả tạo. Trong thâm tâm, tôi lo ngại nhiều hơn về điều mà mọi
người và báo chí có thể nghĩ đến hoặc tin vào, nếu cuộc điều tra không có
bước tiến triển thấy rõ nào sau nhiều ngày.
Tối thứ Bảy, 6 tháng 4 năm 1968, tôi rời tòa Bạch Ốc vào khoảng 6 giờ.
Hoàn toàn tương phản với hoàn cảnh của hai mươi bốn giờ trước, tôi lái xe
về nhà buổi tối đó với niềm tin sớm muộn gì thủ phạm giết hại Harald
Olesen cũng sẽ bị bắt và đối mặt với sự trừng phạt.