Đáng buồn thay, cô không thể cho tôi biết nhiều hơn về cha mẹ mình.
Cha mẹ nuôi của cô đã được nghe kể rằng họ là một cặp vợ chồng trẻ người
Do thái, đến từ Litva, và không có đứa con nào khác. Cha mẹ cô được ghi
nhận là đã chết năm 1944, ngoài ra không có thông tin gì khác. Cô được
biết cha mẹ mình tên Felix và Anna Marie Rozenthal, lần lượt sinh năm
1916 và 1918. Tên khai sinh của cô là Sara Rozenthal, sinh năm 1943. Cha
mẹ nuôi cô không được cung cấp thêm chi tiết gì khác, kể cả về cái chết
của cha mẹ ruột lẫn bằng cách nào cô đến được một văn phòng nhận con
nuôi tại Gothenburg vào năm 1944. Sara đã thắc mắc nhiều về chuyện đó
hồi còn nhỏ. Sau khi tròn hai mươi mốt tuổi, cô cố gắng tìm hiểu nhiều
hơn, nhưng không thành công. Người ta nói với cô là không có thêm thông
tin nào được ghi nhận ở bất kỳ đâu, và theo những gì người ta biết, cha mẹ
cô chưa từng được đăng ký lưu trú tại Thụy Điển. Cô đã từ từ học cách
chấp nhận những điểm không rõ ràng liên quan tới cha mẹ ruột, cố sống
cuộc sống riêng của mình và xem cha mẹ nuôi như cha mẹ duy nhất.
Đôi mắt cô hướng về cửa sổ trong khi nói chuyện.
‘Nhưng chừng nào mà tôi chưa biết chuyện gì đã xảy ra hoặc có một
nấm mồ để đi viếng, tôi vẫn có thể nuôi giấc mơ hão huyền rằng họ vẫn
còn sống, ở nơi nào đó’, cô khe khẽ nói thêm.
Khi tôi đề cập đến tài khoản ngân hàng, đầu tiên cô ngập ngừng, rồi nhíu
mày hỏi tại sao tôi cần phải xem nó. Cô đáp khá nhanh sau khi tôi từ chối
trả lời câu hỏi của cô vì lí do liên quan đến cuộc điều tra. Khá miễn cưỡng,
cô đưa tôi một quyển sổ ngân hàng Thuỵ Điển cho thấy số dư là 55.623
kron. Tôi bình luận rằng số tiền này không thể nào là tài sản của một sinh
viên chưa có thu nhập. Sara cho tôi biết cô thừa kế một ít tiền từ ông nội
nuôi, và sau đó nhận học bổng sinh viên cho nguyên năm học vào tháng 3,
tổng cộng là 50.000. Điều này có vẻ hợp lý, và căn cứ trên việc cô ấy đã
đưa ngay ra quyển sổ ngân hàng, tôi quyết định chấp nhận lời giải thích
trong lúc này.
‘Tuy nhiên, thật không may, chúng ta cần phải nói về mối quan hệ thân
mật giữa cô và một trong số những người hàng xóm’, tôi nói với giọng sắc
lẻm.