băng đảng này. Chúng có thể thao túng cả một trường, mà như thế là hỏng
hết.
Cả giáo viên cũng để tai nghe. Sau nhiều năm trong phòng học, đối diện
cả nghìn khuôn mặt thiếu niên, họ có giác quan thứ sáu về bất cứ ai bước
vào phòng. Họ thấy những cái liếc xéo. Ngửi bầu không khí một lớp mới họ
biết ngay đây toàn ngữ “rận trong quần” hay có thể cùng làm việc. Họ thấy
những đứa kín đáo cần phải gợi cho nói và những đứa lớn miệng cần làm
cho im bớt. Qua cách ngồi của một nam sinh họ biết nó chịu hợp tác hay là
phường phá bĩnh. Là một dấu hiệu tốt khi học trò ngồi ngay ngắn, đặt tay
lên bàn, mỉm cười nhìn thầy giáo. Là một dấu hiệu xấu khi học trò ngồi ngả
ra sau, thò chân trên lối đi, nhìn ra cửa sổ, nhìn lên trần nhà hay nhìn phía
trên đầu thầy cô. Hãy coi chừng, có vấn đề đấy.
Trong lớp nào cũng có một gã ôn dịch để thử thách anh. Nó thường ngồi
hàng cuối, nơi nó có thể nghiêng ghế sát tường. Anh đã nhắc nhở cả lớp về
chuyện ngồi nghiêng ghế thé này: Các em ạ, ghế có thể bị trượt và các em
có thể bị thương. Rồi thầy cô sẽ phải viết báo cáo trong trường hợp phụ
huynh khiếu nại hoặc dọa thưa kiện nhà trường.
Andrew biết ngồi nghiêng ghế sẽ làm anh bực mình hay ít ra cũng khiến
anh phải chú ý. Khi ấy nó có thể chơi trò vặt khiến đám con gái để mắt tới.
Anh bảo: Này, Andrew.
Nó rề rà câu giờ. Thử thách đấy, anh giáo ạ, đám con gái đang nhìn nó
kìa.
Hở?
Đó là thứ âm thanh của đám thiếu niên mà anh không tìm thấy trong từ
điển. Hở? Các bậc cha mẹ nghe thường xuyên. Nó có nghĩa: Bố, mẹ hay
thầy muốn gì nào? Sao làm phiền tôi thế?
Cái ghế, Andrew. Em vui lòng ngồi ngay ngắn, được không?
Em chỉ ngồi có làm gì đâu nào.
Andrew, cái ghế có bốn chân. Ngồi nghiêng trên hai chân có thể bị trượt
ngã.
Cả lớp im phăng phắc. Tới giờ “đọ súng” rồi. Lần này anh biết mình ở
vị thế an toàn rõ rệt. Anh cảm nhận được cả lớp không mấy ưa Andrew, còn