rằng mình mơ về chuyện ấy. Tất cả là lỗi của thầy Lipper vì trong giờ dạy
về triết Trung Hoa thầy đã kể chuyện một người mơ thấy mình là bướm hay
một con bướm mơ thấy nó là người
[154]
. Hay nó mơ thấy nó là bướm? Ô,
mẹ kiếp.
Mọi người cười ồ, trừ Clarence. Ba đứa bạn của nó cũng cười, tuy hơi
gượng gạo. Tôi hỏi hôm nay có muốn đọc truyện không. Nó lắc đầu. Tôi
bảo nó rằng đây là lớp viết văn, mọi người cần tham gia và nếu nó ngại đọc
thì cứ để ai khác đoc bài của nó vậy. Sự lãnh đạm của nó khiến tôi bực
mình. Tôi muốn có được một lớp thật đông vui gồm toàn những học trò như
David nói "Ô, mẹ kiếp".
Hôm ấy tôi có nhiệm vụ phải kiểm tra căng tin. Clarence ngồi dựa tường
với một nhóm học sinh da đen. Chúng cười ồ khi nó làm trò để giống
Hitler: một cái dồi kẹp giữa mũi và môi trên giả làm ria mép, một cái bát to
trên đầu, tay phải duỗi thẳng hô "Sieg Heil"
[155]
. Clarence trong căng tin
khác hẳn Clarence trong lớp.
David ngồi quan sát ở một bàn khác, im lặng chứ không cười.
Sau bữa ăn trưa tôi hỏi Clarence có muốn đọc vào một ngày khác
không. Không, nó chẳng có gì để nói cả.
Không ư?
Dạ, em không bao giờ như David được.
Em đâu cần phải như David.
Thầy sẽ không thích đâu. Chuyện em biết toàn chuyện đường phố.
Những chuyện xảy ra trên đường phố nhà em.
Ừ, thế thì em hãy viết về đường phố nhà em.
Em không viết được. Toàn là ngôn ngữ bậy bạ thôi mà.
Clarence, hãy nói thầy nghe thử một từ mà thầy chưa từng biết. Một từ
thôi, nào Clarence.
Nhưng em tưởng là chúng ta phải dùng thứ tiếng Anh đứng đắn.
Cứ dùng thứ tiếng Anh nào em thích, miễn là em viết ra được trên giấy.
Ngày thứ Sáu sau đó nó sẵn sàng đọc. Những em khác đứng đoc, còn nó
muốn ngồi. Nó nhắc tôi là bài của nó có ngôn ngữ vỉa hè, tôi có ngại gì