đi. Lớp tuyết ấy còn nhẹ và dễ vụn, chúng tôi cố đi xuyên qua, thúc ngựa
tiến vào nhưng ngựa lùi lại như xông vào một bức tường. Chúng tôi lấy
ngọn giáo đâm buộc chúng tiến lên nhưng chúng dựng người lên rồi đôi
chân trước thả xuống bức màn tuyết ấy. Tuyết vào cả mắt, mũi làm chúng
hung hăng lùi lại. Cố vượt qua cũng vô ích, phải chặn tuyết lại làm thành
một lỗ hổng.
Ba người đánh xe leo lên chỗ cao nhất của chiếc xe và người thứ tư leo lên
vai họ, cố khống chế lũ ngựa trở lại. Khối tuyết có thể dày đến hai chục bộ,
tai hoạ không lớn như người ta tưởng lúc đầu, tất cả chúng tôi phải bỏ công
sức ra
trong hai, ba giờ làm việc.
Bầu trời thật âm u, mới bốn giờ chiều đã tối rất nhanh, không có thì giờ
dựng lều, cũng không có cây đốt lửa. Chúng tôi phải dừng lại, sắp xếp xe
thành hình vòng cung, trong đó cho ngựa và chiếc xe của chúng tôi vào
giữa. Như vậy để đề phòng chó sói, không có lửa chúng sẽ tiến lại gần. Vừa
sắp xếp xong thì trời tối hẳn.
Không cách gì nấu ăn được, những người vận tải ăn một miếng thịt gấu
sống, có vẻ cũng ngon lành như khi ăn thịt nướng chín. Tôi dù đói cũng
không ăn được loại thịt sống ấy, đành ăn bánh cùng Louise và đưa cho họ
chai rượu cuối cùng nhưng Georges từ chối, nói để dành lại cho anh em
làm việc.
Louise vốn tỉnh trí, nhắc tôi có hai chiếc đèn của chiếc xe trạm mà tôi lấy
mang theo. Tôi tìm ra, thấy vẫn còn đủ nến.
Mọi người reo lên vui mừng. Không phải một loại bếp lửa có thể đuổi được
các loại thú săn mồi nhưng nhờ ánh sáng chúng tôi có thể thấy chúng tiến
lại gần. Hai chiếc đèn buộc vào hai đầu cây sào cắm sâu xuống tuyết , châm
nến lên chúng tôi vui mừng thấy ánh sáng tuy mờ nhạt cũng chiếu được
một khoảng năm mươi bước chân chung quanh chúng tôi.
Có mười người tất cả, hai đứng gác trên xe, tám người kia chọc thủng khối
tuyết đọng phía trước. Từ hai giờ chiều trời đã bắt đầu lạnh, tuyết bắt đầu
cứng lại, không đào được một lối ra. Tôi cùng làm việc với họ, nghĩ rằng
hoạt động liên tục có thể đỡ lạnh hơn.