cộng lấy nước như vẫn làm trước nay; nó muốn dọn nhà nhưng chẳng
có ai bày bừa căn nhà vắng lặng đã bị lấy sạch cả đồ đạc, thành ra nó
chẳng có gì để làm ngoài lo lắng và mơ mộng.
Đôi khi nó trở thành một gã trinh sát La Mã, nằm bên cửa sổ mở toang,
sau bức màn cửa mẹ may, rình nghe những bí mật của thế giới thù địch. Nó
nghe tiếng xe kéo ngang nhà, tiếng chó sủa, tiếng trẻ nô đùa và tiếng chim
kêu.
Một lần nó nghe lỏm được một nhóm người trong Phường hội trò chuyện.
“Thằng Rob Cole là một món bở đấy. Nên chộp lấy ngay đi,” Bukerel nói.
Nó nằm nghe vụng trộm đầy ý thức người ta nói về mình như thể nói về ai
khác.
“Ừ, nó cao gớm. Lớn lên thì làm khỏe phải biết,” Hugh Tite ngần ngừ nói.
Nếu ông Tite nhận nó thì sao nhỉ? Nó suy nghĩ về cái cảnh phải ở chung
với thằng Anthony Tite mà phát khiếp. Cho nên nó không thấy phật lòng khi
ông Hugh khịt mũi khinh khỉnh: “Phải ba năm nữa nó mới đủ lớn để thành
một tay học việc mà ngay bây giờ đã ăn như ngựa rồi, trong khi London này
đầy những kẻ khỏe mạnh mà bụng lép.” Rồi họ kéo nhau đi.
Hai ngày sau, đằng sau cũng cái màn cửa ấy, Rob đang ăn năn vì cái tội
nghe trộm thì tiếng bà Bukerel nói chuyện với bà Haverhill về công việc
trong Phường hội của chồng lại lọt vào tai nó.
“Ai cũng bảo làm trưởng Phường hội là vinh dự lắm. Có tiếng mà không
có miếng. Ngược lại, có bao nhiêu thứ bó buộc đến bực mình. Tôi chán ngấy
khi phải chia thực phẩm với những kẻ như cái thằng to xác mà lười trong cái
nhà kia.”
“Phải làm gì với nó bây giờ?” bà Haverhill thở dài hỏi.
“Tôi đã khuyên ông Bukerel nhà tôi nên bán nó đi như một đứa bần cùng.
Ngay trong thời buổi túng cùng thì một đứa trẻ nô lệ vẫn được giá để hoàn
lại cho Phường hội và tất cả chúng ta những gì đã chi cho nhà Cole.”
Nó như ngạt thở.