Sáng hôm sau, hai người dọn đi. Ma-ri-út-ka đi trước mang vác nặng như
một con lạc đà. Ma-ri-út-ka mang tất cả chẳng muốn để cho tên trung úy
cầm cái gì cả.
- Đi thôi. Ngộ nhỡ anh ốm lại thì sao, tôi chả chơi dại đâu! Đừng ngại gì
hết. Tôi trông có vẻ yếu, ấy thế mà lại vững ra trò.
Đến trưa, hai người tới chỗ túp nhà. Họ dọn sạch tuyết, buộc lại cánh cửa
bật ra bật vào bằng một mẩu dây thừng, chất đầy cá vào bếp lò rồi vừa sưởi
vừa mỉm cười khoái trí:
- Tuyệt, chúng ta sống như những sa-hoàng vậy!
- Hoan hô Ma-sa. Suốt đời tôi chịu ơn Ma-sa! Không có Ma-sa hẳn tôi sẽ
không biết xoay xở ra thế nào nữa!
- Hẳn đi chứ lại, cậu ấm ạ!
Ma-ri-út-ka ngừng một lát, xoa xoa tay trước ngọn lửa:
- Bây giờ thì ấm áp, rõ hẳn rồi. Nhưng sau này rồi sẽ ra sao?
- Sau này à? Chả sao cả, ta sẽ đợi thôi.
- Đợi cái gì?
- Đợi mùa xuân. Cũng không lâu đâu. Bây giờ là trung tuần tháng ba.
Chỉ độ mười lăm ngày nữa là dân chài đến tìm cá, và họ sẽ giúp chúng ta
thoát khỏi nơi này!
- Hãy cứ hy vọng như thế đi vì cứ cá khô với bột mốc mà ních mãi thì
chẳng chịu được mấy nả đâu. Dăm bữa nửa tháng thì khả dĩ còn kham nổi,
nhưng sau nữa là đi đứt! Đồ cá chết toi!
- Tại sao lúc nào chị cũng nói đồ cá chết toi thế?
- Dân chài chúng tôi ở Át-xtơ-ra-khan hay nói thế để khỏi nói những chữ
tục tĩu. Tôi, tôi không thích những chữ tục. Nhưng thỉnh thoảng điên tiết
lên, thì cũng phải nói một câu gì cho nó hả một chút.
Ma-ri-út-ka quay trở con cá trên lò bằng cái thông nòng súng rồi hỏi tiếp:
- Anh có nói với tôi về chuyện cái đảo hoang... với lại anh chàng Thứ
Sáu ấy mà. Anh kể chuyện ấy cho tôi nghe với trong khi ta ngồi đây chẳng
có việc gì làm. Tôi rất mê những chuyện hay. Tôi có một bà cô. Các bà già