nảo để tự lừa dối mình trước sự đau khổ, cô đơn và bất lực. NHưng rồi anh
phải uống nhiều hơn để đẩy lùi nó vào trong hư vô. Và khi sự tê tái đã làm
anh rã rời, đầu óc đần độn, thì Madeleine lại xuất hiện, dịu dàng khoan
dung. Nàng nói về sự sống như đả từng có và Flavières ngập tràn hạnh
phúc, nhưng rồi qua ngày sau, một Flavières sống lại sự cay đắng, miệng
toàn sỉ nhục.
- Tới Sailly rồi. - Gustave la lên.
Flavières dùng tay lau cửa kiếng.
- Quẹo trái độ 2, 3 km.
Chiếc taxi chạy trên đường đầy vết bánh xe, cây cối như thầm thì trong
mưa, nhỏ giọt xuống những vũng nước. Xa xa một ngôi nhà qua đi, với một
làn khói bốc lên - Gustave lên tiếng:
- Tôi thấy một gác chuông lớn.
- Chổ này rồi. Anh đợi tôi phía trước nhà thờ.
Như trước kia, xe quẹo phải. Flavières bước xuống xe nhìn lên hành lang
nhà thờ. Anh không thấy xúc động, mà cảm thấy thật lạnh giá. Anh rời xe
để tìm kiếm những ngôi nhà mà xưa kia mang dấu ấn với anh. Khi đang
choáng váng trước cầu thang anh đã nhìn thấy nóc nhà. Chúng ở phía dưới
những tàn cây dẻ trụi lủi, hơn một chục gian nhà lụp xụp xám xậm với một
bầy gà mái chạy qua chạy lại. Một cửa tiệm nhỏ bé, với bản hiệu lu mờ.
Flavières đẩy cửa bước vào.
Mùi đèn cầy và mùi hôi toả ra. Một tấm card bưu điện vàng úa trên kệ.
Một bà lão phía sau tiệm bước ra hỏi:
- Ông cần gì?
- Bà có trứng hoặc thịt? Tôi bệnh nhưng làm cách nào để đến tiếp tế ở
Paris.
Giọng anh không có vẻ quỷ quyệt, dáng điệu lại khiêm tốn. Anh biết chắc
là bà ta sẽ từ chối. Bằng một vẻ lơ đễnh, anh nhìn những tấm card.
“Ô !Thôi mặt, để đi nơi khác tìm. Phải xem qua nhà thờ... Nhà thờ Saint
Nicolas. Tên này làm tôi nhớ đến những năm bốn mươi... Tháng 5- 40, báo
chí đăng một vụ tự tử ở đây ”.
- Phải rồi. Có một bà nhảy từ tháp chuông xuống. - Bà lão đáp.