- Phải tôi nhớ ra rồi. Bà vợ của một kỹ nghệ gia ở Paris.
- Đúng rồi, bà Gévigne! Tôi nhớ tên bà ấy bởi vì tôi khám phá ra xác bà ta.
Từ đó đến nay nhiều chuyện đã xảy ra, nhưng tôi không quên được người
đàn bà khốn khổ ấy.
- Bà có rượu? Tôi cần một tí gì đó để uống.
Bà ngước nhìn khách hàng bằng đôi mắt đã từng nhìn qua nhiều người qua
cuộc chiến tranh, đôi mắt không diễn tả được gì. Bà đáp:
- Chắc có.
Anh lấy một tấm card bỏ vào túi áo và xếp lại vài thứ trong khi bà chủ quán
đi vô trong kiếm chai rượu và cái ly. Rượu có vẻ dở, làm cổ họng anh như
thắt lại.
Anh bật nói:
- Ý nghĩ lạ thật, Tự nhiên lại nhảy từ tháp chuông xuống.
Bà lão chặng tay vào khăn choàng. Có thể bà ta không cho đó là một ý nghĩ
điên khùng. Bà lão đáp:
- Lẽ ra bà ấy không nên để trượt chân như vậy. Tháp chuông cao hơn hai
mươi mét, và bà ta lại té đụng đầu xuống đất. Flavières đáp rằng:
- Vậy sao? Anh thở gấp, nhưng lại không có cảm giác đau khổ. Chỉ có điều
anh thấy đã rời khỏi anh, và tự hại mình một cách quyết đoán. Mổi lồi nói
của bà ta như một sọt đất nếu trên ngôi mộ còn chưa lấp kín. Bà lão tiếp:
- Chác là người từ xa đến làng này, vì những người đàn ông thì bị động
viên, đàn bà thì làm rẫy ở ngoài đồng. Lúc sáu giờ khi tôi đi nhà thờ, vì con
trai tôi đang ở trong đội du kích...
Bà dừng lại một giây. Bà có vẻ già hơn nhiều với bộ đồ màu đen.
- Tôi từ phòng thánh ra. Có một cánh cửa phía sau nhà thờ. Từ nghĩa trang
về nhà tôi gần hơn. Lúc ấy tôi thấy bà ta... Báo hiến binh phải mất nhiều thì
giờ lắm.
Bà nhìn đàn gà đang bươi ở cửa. Có thể bà đang nhớ lại sự sợ hãi, mệt mỏi
của buổi chiều ấy và hiến binh được báo tin, những ngõ ngách của nghĩa
trang, những ngọn đèn pin rọi khắp mọi nơi, và sau đó người lấy khăn tay
bịt miệng.
Flavières hỏi tiếp :