Cậu biết chúng là máy bay truy tìm. Chúng bay tới gần đến mức tiếng động
cơ làm cậu tỉnh giấc, và thỉnh thoảng, khi lo ngại nhìn lên từ nơi trú ẩn, cậu
gần như có thể thấy khuôn mặt của những người truy tìm.
Cậu biết rằng họ không thấy được màu sắc, và rằng da thịt của chúng, cũng
như những lọn tóc vàng óng của Gabriel, cũng sẽ không hơn gì những vệt
xám trên nền lá không màu. Nhưng cậu còn nhớ từ những tiết khoa học và
cộng nghệ ở trường, rằng những chiếc máy bay truy tìm sử dụng thiết bị
tầm nhiệt có thể phát hiện hơi ấm của cơ thể và sẽ tìm ra hai con người
đang cuộn tròn trong những bụi cây.
Vậy nên mỗi khi nghe thấy tiếng máy bay, cậu lại chạm vào Gabriel và
truyền ký ức về tuyết, giữ lại một chút cho bản thân. Cả hai cùng lạnh dần;
và khi máy bay bay khỏi, chúng sẽ run rẩy, ôm lấy nhau, cho tới khi giấc
ngủ lại ập tới.
Đôi lúc, khi truyền ký ức vào Gabriel, Jonas nhìn thấy chúng đã nhạt đi và
yếu hơn trước đây một chút. Đó là điều cậu hy vọng, và là điều cậu và
Người Truyền thụ đã dự định: rằng khi rời khỏi cộng đồng, cậu sẽ trút lại
những ký ức và để chúng lại cho mọi người. Nhưng lúc này, khi cần đến
chúng, khi máy bay đến, cậu đã cố hết sức để bấu víu vào những gì mình
vẫn sở hữu, về cái lạnh, và dùng nó để sống sót.
Thông thường máy bay đến vào ban ngày, khi họ đang ẩn nấp. Nhưng ban
đêm cậu cũng vẫn canh chừng, khi đang trên đường, luôn chú ý lắng nghe
phòng tiếng động cơ. Thậm chí cả Gabriel cũng để ý nghe, và sẽ gọi to,
“Máy bay! Máy bay kìa!” đôi lúc trước cả khi Jonas nghe được âm thanh
khủng khiếp đó. Thỉnh thoảng, khi máy bay truy tìm tới trong đêm lúc
chúng đang đạp xe, Jonas liền tăng tốc tới cái cây hoặc bụi rậm gần nhất,
nằm bẹp xuống đất, rồi làm cho bản thân và Gabriel lạnh đi. Nhưng đôi khi
cậu thoát trong đường cơ kẽ tóc đến rợn người.