vực xung quanh mà không thu được kết quả gì.”
“Sau đó thì làm gì nữa?” Harry vuốt ngón cái và ngón giữa lên quai hàm,
thầm nghĩ lẽ ra anh nên cạo râu trước khi rời thành phố.
“Anh đọc lại các báo cáo cũ cùng với những người từng phụ trách điều tra
mà hiện vẫn còn làm việc ở đó. Tìm hiểu đầy đủ thông tin. Cố gắng xem xét vụ
án từ một góc độ khác.”
“Không,” Harry đáp.
Katrine ngẩng lên khỏi cuốn sổ tay.
“Những thanh tra ngày ấy đã đưa ra kết luận của riêng mình, nhất định họ sẽ
tìm mọi cách bảo vệ quan điểm cá nhân,” Harry giảng giải. “Tôi thích nghiền
ngẫm đống báo cáo trong yên bình ở Oslo. Còn tranh thủ thời gian ở đây để
tìm hiểu thêm về Gert Rafto. Có chỗ nào cho chúng ta xem qua đồ đạc của ông
ta không nhỉ?”
Katrine lắc đầu. “Gia đình ông ta đã quyên góp toàn bộ cho tổ chức Cứu Thế
quân. Rõ ràng là cũng chẳng nhiều nhặn gì. Chỉ có ít đồ nội thất và quần áo
thôi.”
“Thế nơi ông ta từng ở thì sao?”
“Ông ta sống một mình trong căn hộ ở Sandviken sau ly hôn, nhưng nó bị
bán từ lâu rồi.”
“Ừm. Gia đình họ không còn giữ lại ngôi nhà thuở nhỏ, nhà ở quê hay nhà
nghỉ nào à?”
Katrine ngần ngừ. “Trong báo cáo có nhắc đến một căn nhà gỗ nhỏ tại khu
nghỉ hè dành cho cảnh sát, nằm trên đảo Finnøy ở Fedje. Gia đình được phép
giữ lại căn nhà trong những trường hợp như thế này, vì vậy chúng ta có thể thử
xem. Tôi có số điện thoại của vợ Rafto rồi. Tôi sẽ gọi điện cho bà ấy.”
“Tôi tưởng bà ta không muốn nói chuyện với cảnh sát.”
Katrine nháy mắt với anh và nở nụ cười ranh mãnh.
Harry xoay xở mượn được một chiếc ô ở quầy lễ tân khách sạn, nhưng chẳng
mấy chốc nó đã bị gió thổi tốc ngược khi anh còn chưa tới nổi chợ cá
Fisketorget ở cảng, và trông không khác gì con dơi tàn tạ lúc anh đến được Sở
Cảnh sát sau một hồi cúi đầu mải miết chạy.