giữa những bức tường trong thoáng chốc.
“Và tôi nghĩ Rafto cũng không thích bị gọi như thế đâu.”
Rời khỏi Sở Cảnh sát, Harry đứng đó nhìn khách bộ hành cúi rạp người
gắng gượng bước đi giữa trời mưa gió. Cảm giác ấy vẫn không chịu buông tha
cho anh. Cảm giác như có thứ gì hoặc người nào đó đang ở đâu đây, hiện hữu
ngay trong nội bộ, nếu anh biết nhìn nhận mọi thứ từ một góc độ chuẩn xác,
dưới ánh sáng minh bạch và rõ ràng.
Katrine tới đón Harry ở bến tàu như đã hẹn.
“Thứ này là tôi mượn của một người bạn,” cô nói trong lúc điều khiển thứ
gọi là thuyền máy dài gần sáu mét rưỡi phóng ra khơi từ cửa cảng chật hẹp.
Khi thuyền đi vòng qua bán đảo Nordnes, một âm thanh cất lên khiến Harry
ngoái lại, và anh bắt gặp hình ảnh chiếc cột totem. Những khuôn mặt khắc trên
gỗ đang ngoác miệng khản cổ gào thét về phía anh. Một luồng gió lạnh quét
ngang qua chiếc thuyền.
“Bầy hải cẩu ở Thủy Cung kêu đấy,” Katrine nói.
Harry khép áo khoác chặt hơn quanh mình.
Finnøy là đảo nhỏ. Ngoài những cây thạch nam, chẳng còn loài thực vật nào
tồn tại nổi trên khoảnh đất mưa dập gió vùi, nhưng ở đây lại có một bến tàu và
Katrine neo thuyền vào đó một cách thuần thục. Khu nhà ở có cả thảy sáu
mươi căn nhà gỗ bé như nhà búp bê, khiến Harry nhớ đến những ngôi lều của
thợ mỏ anh từng thấy ở Soweto.
Katrine dẫn Harry bước trên con đường rải sỏi len lỏi giữa những căn nhà,
rồi dừng lại phía trước một trong số đó. Căn nhà nổi bật hẳn lên nhờ lớp sơn
bong tróc. Một ô kính trên cửa sổ đã rạn nứt. Katrine kiễng chân, nắm lấy
chiếc đèn ốp trần lắp trên cửa ra vào và bắt đầu vặn. Bên trong vang lên tiếng
lạo xạo khi cô xoay vỏ đèn và mấy con côn trùng chết rụng lả tả. Rơi xuống
cùng chúng còn có một chiếc chìa khóa mà cô kịp bắt lấy trong không trung.
“Bà vợ cũ quý tôi lắm,” Katrine nói, tra chìa vào ổ.
Trong nhà có mùi nấm mốc và gỗ ẩm. Harry căng mắt ra nhìn giữa khung
cảnh tranh tối tranh sáng và nghe thấy tiếng bật công tắc và đèn bừng sáng.
“Vậy là bà ấy vẫn duy trì hệ thống điện dù không sống ở đây,” anh nói.