“Công lao đó thuộc về Skarre,” Harry nói, không thích nhiều lời. “Còn kết
luận là của tôi, mà giờ tôi sẽ trực tiếp trình bày với sếp.”
“Làm ơn nói ngắn thôi.”
Harry cúi nhìn hai bàn tay đặt trong lòng. Đôi chân dài duỗi thẳng về phía
trước. Anh hít sâu một hơi. Anh biết rõ một khi đã nói ra sẽ không cách nào rút
lại được.
“Có quá nhiều người mất tích,” Harry lên tiếng.
Hàng lông mày bên phải của Hagen nhướn lên. “Nói rõ hơn đi.”
“Sếp xem trang 6 ấy. Một danh sách phụ nữ trong độ tuổi từ hai mươi lăm
đến năm mươi mất tích từ 1994 đến nay. Những người vẫn chưa được tìm thấy
trong mười năm trở lại đây. Tôi đã trao đổi với Ban Tìm kiếm Người Mất tích,
và họ cũng đồng ý. Thực sự là quá nhiều.”
“Quá nhiều so với cái gì?”
“So với trước đó. So với Đan Mạch và Thụy Điển. Và so với những nhóm
nhân khẩu khác. Phụ nữ đã lập gia đình hoặc đang sống chung chiếm tỷ lệ áp
đảo trong danh sách.”
“Phụ nữ thời nay độc lập hơn so với trước đây,” Hagen nói. “Nhiều người
chọn cách sống riêng, tách khỏi gia đình, ra nước ngoài với bạn trai, có thể
lắm. Điều đó hẳn cũng là yếu tố tác động đến số liệu thống kê. Thế thì có gì
đáng nói đâu nào?”
“Phụ nữ Đan Mạch và Thụy Điển cũng độc lập hơn. Nhưng họ vẫn được tìm
thấy đấy thôi.”
Hagen thở dài. “Nếu những số liệu này quá dị biệt, như cậu nói, vậy tại sao
trước đây không ai phát hiện ra?”
“Vì số liệu Skarre thu thập được là tính trên cả nước, trong khi cảnh sát chỉ
tập trung vào những vụ xảy ra tại địa bàn họ phụ trách. Trong sổ thống kê quốc
gia về người mất tích ở Kripos có đến một ngàn tám trăm cái tên, nhưng đấy là
tính tổng trong vòng năm mươi năm gần đây, gồm cả những vụ đắm tàu và tai
nạn như vụ lật giàn khoan Alexander Kielland chẳng hạn. Mấu chốt nằm ở chỗ
chưa ai xem xét trong phạm vi toàn quốc. Cho tới bây giờ.”