thể giết cậu ta. Magdalena Schelderup nói bà ta ở nhà một mình, nhưng
không có gì xác nhận điều này. Hans Herlofsen có bằng chứng ngoại phạm
đến 10 giờ: ông ở văn phòng tại trung tâm thành phố, họp với ba nhân viên
khác về tương lai của các công ty. Nhưng sau đó ông cũng ở nhà một mình,
theo lời ông.
Tôi nói chuyện với Sandra và Maria Irene Schelderup ngay khi có thể và
câu trả lời của họ rất giống nhau. Tuy nhiên, không như những người khác,
hai người phụ nữ ở Lâu đài Schelderup có bằng chứng ngoại phạm đáng tin
cậy. Khoảng thời gian người phụ nữ bí ẩn mặc áo lông chồn đến thăm
Leonard Schelderup, Sandra Schelderup đang gọi điện cho tôi, viên cảnh
sát ở bên ngoài Lâu đài Schelderup có thể xác nhận cả hai mẹ con đều ở
nhà. Suốt buổi tối, họ xuất hiện trong khung cửa sổ nhiều lần và không ai ra
khỏi nhà. Đàn chó im lặng cả đêm.
Tôi thở một hơi dài nhẹ nhõm và tự khen mình vẫn bố trí một cảnh sát
gác Lâu đài Schelderup qua đêm. Ý nghĩ hãi hùng rằng cô Maria Irene trẻ
măng có thể dính líu đến các vụ giết người đã lu mờ, mặc dù bằng chứng
ngoại phạm đêm qua không có nghĩa là cô hoặc mẹ cô có thể được loại trừ
dính líu đến vụ sát hại Magdalon Schelderup.
Sandra Schelderup có vẻ yên lòng vì có bằng chứng ngoại phạm. Nhờ
chi tiết này, tôi để bà ta quyết định xem có cần một cảnh sát gác Lâu đài
Schelderup hay không. Bà nghĩ một lát rồi trả lời họ đã có đàn chó, và thực
ra không thể nấp vào bất cứ nơi nào trong vườn, nên có lẽ ngày hôm sau
cảnh sát có thể rời đi, trừ khi có dấu hiệu nguy hiểm.
Tôi nhấc máy gọi ông bà Wendelboe lúc chợt nhớ tới những vấn đề
Patricia nêu ra, tôi nên hỏi về thời Kháng chiến. Tôi cũng cần liên hệ với
Fredrik Schelderup, báo cho anh ta biết về cái chết của cậu em và đến thăm
anh ta. Rốt cuộc, tôi gọi cho cả hai người ngắn gọn chỉ để thu xếp cuộc
thăm viếng vào vài giờ sắp tới.
VI
Người ta không thể làm gì ngoài việc thán phục tâm lý vững vàng của
Fredrik Schelderup, hoặc vô cùng sửng sốt vì thái độ dửng dưng của anh ta.