ngày một cách không cần thiết. Tôi đồng ý ngay lập tức và vị giám đốc hứa
sẽ tới đồn vào buổi trưa. Rồi ông đặt ống nghe xuống, hấp tấp khác thường.
Chuông điện thoại ở Sørum reo một lúc lâu. Tuy vậy, đến hồi chuông thứ
bảy thì Synnøve Jensen cũng nhấc máy, hết cả hơi khiến ngay lập tức tôi
hình dung cô chạy từ buồng tắm xuống cầu thang để nhận điện. Lúc đã lấy
lại hơi thở, cô nói không biết gì về thư từ mà Magdalon Schelderup định
gửi vào ngày thứ Hai. Tuần trước, cô đã viết hai bức thư và cả hai đều là
thư chúc mừng đúng chuẩn mực và cô đã gửi đi trong ngày. Nếu ông có thư
nào tự viết, thông thường ông để lại trên bàn hoặc trong ngăn kéo.
Ngay lập tức, tôi lọc ra công thức “thông thường ông để lại” và hơi cao
giọng hỏi liệu ông có để ở nơi nào khác nếu không muốn để trên bàn hoặc
trong ngăn kéo. Giọng cô hình như chậm dần lúc trả lời. Có cảm giác tôi đã
đánh trúng một thứ mạnh hơn.
- Khi đó, chúng được khóa trong một cái hộp kim loại mà ông ấy cất ở
đây.
Cô gần như thì thào những từ cuối cùng, trước khi thu hết can đảm và
tiếp tục bằng giọng to hơn, nhanh hơn.
- Nhưng cho đến bây giờ tôi không mở hộp và cũng không biết bên trong
đựng gì, hoặc có thể là cái gì. Ông ấy dặn cái hộp lúc nào cũng phải khóa
và không bao giờ được mở, trừ khi ông ấy ở đây, - cô nói thêm, sợ sệt.
Chắc là cô cũng nghĩ như tôi. Mặt khác, lý do đó sắp đổ sụp. Cô nói tiếp
sau vài giây im lặng căng thẳng, giọng cô càng tuyệt vọng.
- Chúa ơi, tôi mới ngu làm sao. Lẽ ra tôi nên nói đến cái hộp với anh từ
hôm qua. Cái chết là một cú sốc. Tôi thực sự không nghĩ ra mình có thể có
gì quan trọng trong nhà, mà anh cũng không hỏi…
Tôi hỏi ngay lập tức Magdalon Schelderup đến đó lần cuối là khi nào và
ai có chìa khóa hộp. Cô đáp, đầm đìa nước mắt, rằng ông ta đến đó vào
hôm thứ Sáu. Theo cô biết chỉ có hai chìa khóa. Một cái ở vòng đeo chìa
khóa của ông, cái kia trong tay cô.
Cô đề nghị mở hộp ngay, nếu tôi cần. Thay vào đó, tôi yêu cầu cô ở nhà
và không động đến cái hộp cho đến khi tôi tới đó.