22
CHUYỆN CHỮ NGHĨA ĐỎ VÀ HỒNG
Ở
ngõ Hàng Giầy trước khi Thủ đô được giải phóng, có hiệu ăn Hoa
Kiều có món cơm Hoa Kỳ (vì Hà Nội lúc ấy đã bị ảnh hưởng Mỹ phần nào)
sau giải phóng, món cơm ấy được đổi một chữ thành cơm Hồng Kỳ, tức cờ
đỏ. Ghê thay sự hoạt đầu, cơ hội, gió chiều nào che chiều ấy.
Hồng tiếng Hán là Đỏ. Còn tiếng Việt, phân biệt Hồng và Đỏ là rất khác
nhau. Ngã tư có đèn đỏ mà không phải đèn hồng. Hồng nhạt hơn nhiều, nó
là đỏ pha loãng, cũng khác với màu Đào, màu Sen.
Hồng còn có nghĩa Hoa Hồng (có hoa hồng đỏ, hoa hồng vàng, hoa hồng
trắng), quả Hồng (Hồng Hạc, Hồng Nhân hậu màu đỏ) Chim Hồng (một
loài chim lớn mà Hưng Đạo Đại Vương đã lấy chim ấy ra ví với Yết Kiêu,
Dã Tượng) hoặc Nguyễn Du viết: "Cánh hồng bay bổng tuyệt vời” - chỉ Từ
Hải như cánh chim hồng ấy.
Khách má hồng là để chỉ người con gái, không ai nói khách má đỏ. Cô
nào khờ dại đánh má đỏ như cà chua, như quả nhót, thì không thể nhìn
được.
Trong Kiều còn có câu "Hồng quân với khách hồng quần..." Hồng quân
là tạo hoá, là thượng đế to lớn. Còn Hồng quần là người mặc quần hồng,
tức người con gái Trung Hoa xưa luôn mặc quần đỏ.
Tiền Hoa Hồng là tiền thưởng cho ai làm một việc gì đó như một thứ
hương thứ hoa. Hồng hoa là tiết lợn sống có thể để đánh tiết canh. Hồng
phúc là phúc lớn. Hồng tâm là vòng tròn màu đỏ ở cái bia tập bắn.
Quốc kỳ ta màu đỏ mà không phải màu hồng. Nông dân được cấp sổ
chứng nhận quyền sử dụng đất gọi là Sổ Đỏ mà không phải Sổ Hồng. Đỏ
phai đi thành màu khác, nó bạc phếch nhuôm nhuôm chứ không phải hòng